Ít có tập thơ nào mà tôi đọc liền một mạch như Mùa quả muộn.
Bây giờ có nhiều người in sách lắm, nhất là sách thơ. Khác với khi xem các thể
loại văn chương, cách tôi đọc thơ rất lạ, chỉ cần vài bài giở ngẫu nhiên mà
không rung động thì có cố cũng không đọc được nữa. Thế mới khâm phục những người
làm biên tập, thích hay không cũng phải đọc cho hết chứ không thể như người thưởng
thức. Nhưng cuốn ‘Mùa quả muộn’ thì khác.
Đọc đến bài thứ tư “Phố đêm”, tôi phải trở lại bài thứ nhất “Gọi
em” và đọc lại. Chợt thấy sởn cả gai ốc. Lâu lắm rồi mới thấy một cảm giác như
vậy. Một niềm thương cảm dâng lên trong lòng khiến sống mũi cay cay. ‘Gọi em’
là tiếng gọi gần như vô vọng. Hình dung người đàn ông không giấu nổi nỗi buồn
và cất tiếng gọi, gửi vào đó tiếng lòng mình. Khung cảnh quanh nhà với hàng ổi,
hàng doi, ao cá quen thân; nhìn mấy đứa con ngây thơ chạy nhẩy, vô tư líu lô,
có lúc nào chúng nhắc hay đòi mẹ không nhỉ. Tất cả làm cho nỗi nhớ thương càng
cháy bỏng. Niềm thương nhớ ấy gắn với một nỗi lo lắng thực sự hiện hữu: Xã bên,
huyện bên, tỉnh bên, trên đài, trên báo có nhiều chuyện buồn và thương tâm lắm.
Cùng cực kiếm sống, đã không ít người lỡ bước sa chân, không dính vào hàng cấm
thì có khi cũng tha phương ở nước người. Thế là lo lắng, đêm đêm “giấc ngủ chập
chờn”. Rồi chẳng làm gì được, có khi là không có tin tức gì về người vợ đang
xa, chỉ biết mong “em ơi về ở cùng anh”. Câu thơ được nhắc đi nhắc lại như một
lời thổn thức, cứ mong thế, cứ gọi thế. Người đàn ông tin rằng lời gọi ở tận
cùng thương cảm của mình sẽ đến được người ở xa. Chẳng biết chị có nghe thấy
chăng, và nghe thì có quyết bỏ hết mọi việc mà về chăng, nhưng người đọc, dù
không trong cảnh ấy mà cũng rùng mình khi đọc câu thơ đứt ruột kia.
Gọi đấy mà cũng là tâm sự đấy: em mà có làm sao thì anh bơ
vơ lắm. Người đàn ông gần như cả đời chỉ gắn với chữ nghĩa, mà chữ nghĩa thực sự
thì chuyện áo cơm không phải chuyện đùa(!), rồi đây “lấy gì nuôi được con thơ”,
và cả bản thân anh nữa, cậy nhờ ai hôm sớm?.
Gọi đấy mà cũng là lời
hứa đấy: Anh vẫn đợi chờ em, cả cái không gian này “bốn mùa gió trăng” vẫn đang
đợi em, dù nghèo khó rồi “nợ nần trang trải dần lâu cũng mòn”, em cứ về đây dù “vơi
bát cơm ăn” nhưng sẽ vui trong cảnh thanh bần.
Gọi đấy mà cũng để nhắn gửi “cầu cho em được bình yên”. Chỉ
cần thế thôi, tiền bạc lúc này không quan trọng nữa, chỉ cần không có chuyện gì
xẩy ra với em thì đã là một hạnh phúc. Nhân gian đã nói từ đời nào: “còn người,
còn của”, “còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”…
Và trên tất cả là mong
mỏi một tương lai sum vầy, trong mùa xuân của trời đất cũng là mùa xuân lòng
người khi đoàn tụ, cùng chung nâng cốc rượu đầy, anh vẫn như ngày nào, la đà say
men nồng tình yêu bởi em má đỏ ửng hạnh phúc. Tiếng gọi khẳng định một tương
lai quyết không chia xa một lần nữa cho tới lúc rời khỏi cuộc đời với câu kết “trăm
năm ta sống một nhà bên nhau”.
Bài ‘gọi em’ phải đặt cạnh bài ‘phố đêm’ mới thấy hết bức
tranh đời thường cảm động ấy. Từ khi gọi đến lúc này đã 4 năm (1990-1994),
không ai biết những gì đã xẩy ra trong thời gian đã qua. Nhưng giờ người vợ đã
về ở cùng chồng con và đang lo toan cuộc sống thường ngày với một “gánh hàng”. Bà vợ ông Tú Xương ngày trước cũng “quanh năm buôn bán ở mom sông”, cũng “lặn lội
thân cò khi quãng vắng”. Nhưng bà vợ trong bài thơ ‘phố đêm’ thì đích thị là “con
cò mà đi ăn đêm” rồi. Những cái đêm của huyện lỵ vùng bán sơn địa kia nào có nhộn
nhịp gì cho cam. Dám chắc là ít người qua lại, ít người mua, “người thưa” thớt
lắm và “em ngồi bán ổi bán na”. Mấy món quà quê quen thuộc ấy lại bán ở cái nơi
cũng là đồng đất quê mùa, nào có thiếu gì những cây ổi, cây na trong các nhà nửa
phố, nửa quê. Thế đủ biết là gánh hàng chắc chỉ vài đồng vốn còm, hoặc là người
đàn bà này mang trái cây vườn nhà mình bán lẻ để kiếm được hơn một vài đồng,
thay vì bán cả vườn cho người ta vào hái quả.
Nhưng cái gánh hàng còm cõi là cả một cơ nghiệp để lo chuyện
áo cơm kia đấy. Vì người chồng tài hoa cặm cụi đọc, cặm cụi viết, cặm cụi dịch
như là cái nghiệp đã vướng vào thân chứ phải đâu là nghề chữ nghĩa kiếm tiền.
Anh bảo “thơ anh chỉ đổi được tràng vỗ tay”, là so với cái hiện thực lo bữa ăn
hàng ngày từ cái “gánh hàng” của em thôi, chứ người đời đọc những gì anh viết
không thể nghĩ như vậy. Không nghĩ như vậy, nhưng cũng mới chỉ có những “tràng
vỗ tay” thật. Thơ viết ra, đọc cho bạn bè nghe, cho học trò nghe thì khen,
nhưng phải bỏ thêm tiền ra mua chính thơ mình để tặng cho đủ những người cần tặng.
Thế thì so làm sao được với “gánh hàng” của em. Cái cách nói này là đề cao công
lao người vợ lắm. Người vợ nào không sung sướng khi được chồng biết đến cái công
lênh ấy.
Đọc bài ‘phố đêm’, không còn cái bi ai của ‘gọi em’ nữa.
Giờ thì tác giả đã nhận thấy “thoáng bay hương đồng”, đã thấy “bầu trời cao tít”
và cơ man nào là sao trong cái dải Ngân Hà kia. Tôi phải đọc đi đọc lại câu “bóng
em nhỏ tối như là chấm đêm”. Đúng rồi, chấm đêm, chấm đêm. Một từ không thông dụng,
chưa thấy mấy người dùng. Ô hay, cả cái vũ trụ này, cả cái dải Ngân hà kia, cả
cái không gian huyện lỵ về đêm kia đã đọng lại, tập trung lại một điểm thôi,
trong con mắt người viết (đang đi tìm vợ mà), chỉ là một điểm thôi. Người viết
này giỏi cả toán nữa, một điểm, một chấm thôi, nhỏ lắm, nhưng thiêng liêng lắm,
là một thành tố khó định nghĩa trong toán học và người ta hiểu với nhau nó là tiên
đề, nó có sẵn, không chứng mình được. Thấy chưa, một niềm vui vỡ òa trong anh
khi nhìn thấy “chấm đêm” ấy. Ai đã đi tìm người thân trong đám đông, trong
không gian rộng lớn lại không có cảm giác đó. Có mà không nói ra được, thì đây,
ông Tuân nói hộ đây rồi: một “chấm đêm”, nhưng là cả vũ trụ, phải không? Giờ
thì trong tôi đã có thêm một từ mới “chấm đêm”, nó gắn với một người phụ nữ
gian khổ, nhọc nhằn lo cho chồng con có được một bữa ăn, một tấm áo mới. “chấm
đêm”, tôi yêu và xin cúi đầu trước những “chấm đêm” ấy.
Phần lục bát có nhiều bài hay. Nhưng với tôi, hai bài ‘gọi
em’ và ‘phố đêm’ là điển hình nhất. Mùa quả muộn không phải mạnh ở phần lục
bát, phần thơ thất ngôn bát cú đặc sắc hơn nhiều. Nhưng giờ chưa phải là lúc
nói đến phần đó. Dừng lại ở phần lục bát, nếu làm biên tập, tôi sẽ bỏ một số
bài, vì nó làm loãng cái hồn người viết. Nhưng đó là “nếu”. Tôi vẫn có trong
tay cả một tập thơ với bao tâm tình, mời gọi sẻ chia. Hiểu được một phần trong
đó, nhất là phần thơ kiểu cổ cũng là hạnh phúc lắm thay./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét