Chủ Nhật, 20 tháng 12, 2015

Một ngày đáng nhớ

Lính xe tăng (Anh Trang) gọi thông báo: Kỷ niệm ngày thành lập Quân đội, thầy Thịnh cô Tú tổ chức buổi gặp mặt tại nhà để mừng cho học trò đã từng tham gia Quân đội. Thế nào? hỏi lại vẫn như thế. Xúc động đến nghẹn lòng. Ôi, thầy cô của tôi.
Chiều ngày 20 tháng 12, tìm đến nhà thầy cô ở khu đô thị Định Công. Mấy bạn đã có mặt: Nguyệt, Khoản, Vọng, vợ chồng Lân Văn. Đặc biệt là có cả cô Hạnh. Cô đã gần 80 rồi. Thầy cô đã tự tay chuẩn bị một bàn ăn rất thịnh soạn để chờ học trò. Những đứa học trò của thầy cô nay cũng đã bạc mái tóc, nhưng tắm trong tình thương yêu của thầy cô, bỗng trẻ lại như ngày nào. Tranh nhau nói, chọc ghẹo nhau, lấy tay bốc thức ăn như những đứa con về với cha mẹ trong nhà mình không phải giữ ý gì.
Thầy Thịnh nói đại ý: các trò luôn nhớ các thầy cô, ngày nhà giáo vẫn luôn nhớ tri ân các thầy. Hôm nay, thầy cô muốn mừng ngày của các em, những người lính đã qua chiến tranh, mừng các em đã hoàn thành nhiệm vụ người lính. Cảm động quá. Một người nói: chúng em được thế này, có nhiều công sức các thầy cô. Tình cảm của thầy cô giành cho chúng em và cũng là giành cho cả Quân đội Nhân dân Việt Nam, thật nhiều ý nghĩa. Thầy Thịnh vừa mới sang tuổi 70, có chút rắc rối với bệnh tim nhưng còn phong độ lắm. Chờ cho mọi người chúc tụng nhau vui vẻ, thầy mới đưa ra 2 món quà bất ngờ. Cả bọn háo hức đợi thầy mở máy tính. Một giọng ca vút lên: "Bài ca bên cánh võng - chiều Trường Sơn dào dạt võng đưa...Giọng Tô Hà tha thiết. Thầy nói: "ở xa không về được, Tô Hà gửi tặng các anh, các bạn nhân ngày này". Cậu Lân hát theo, rồi mấy người cùng hát theo. Ai mà ngờ được Tô Hà hát hay thế. Khoản nói to:" Tô Hà hát chẳng khác gì ca sĩ". Cậu ta tự coi là quí Tô Hà nhất. Ừ, cứ nhận đi. Tô Hà là bạn, là em của tất cả chúng tôi, đứa nào chẳng quí, biết đứa nào quí hơn cơ chứ?. 
Món quà thứ hai là bài hát về mẹ của anh Nguyễn Chính, lời thơ của cô Tú. Cả nhà trầm xuống, yên lặng và rưng rưng trong nỗi lòng những đứa con nghĩ về người mẹ của mình. Lời thơ thật cảm động, âm nhạc thật hay. Lân bảo: "dịp lễ Vu Lan, bài này không thể thiếu". Vẫn biết cô Tú làm thơ hay, nhưng nghe bài thơ phổ nhạc thật cảm động. Cô ơi, chúng em cũng luôn yêu thương và nhớ công ơn mẹ, nhưng chẳng biết nói ra thế nào. Cô làm chúng em rơi nước mắt khi nghe bài hát và nhớ đến mẹ mình. Cám ơn cô.
Văn, phu nhân của cậu Lân, tặng các anh hai bài hát rất hay. Vui nhất là Lân, cậu ta bảo bất ngờ về giọng hát của vợ. Lân ơi, ở tuổi 60 mà còn bất ngờ về khả năng của vợ mình thì hiếm lắm. Bạn tôi hạnh phúc lắm thay. 
Hôm nay còn vắng nhiều người, Quý Ân gọi từ Chí Linh lên hai lần, chắc cậu ta tiếc lắm vì không lên dự được. Thảo Dê Đại Tài gọi từ Đồng Nai ra chia vui. Nếu có mặt ở đây, thế nào Thảo cũng hát. Giọng khỏe, hát không thật hay đâu, nhưng nó sẽ hát tặng thầy cô, tặng bạn bè. 
Rồi cả bọn học trò nhất trí chọn nhà thầy Thịnh cô Tú là "trụ sở" cho gặp mặt mỗi năm ít nhất một lần. Đây sẽ là một địa chỉ cho những học trò cấp 3 Chí Linh, dù ở Hà Nội hay ở đâu. Cứ về với thầy cô sẽ như được về nhà. Một buổi tối đậm tình thầy trò. Thầy Thịnh, cô Tú, cô Hạnh ơi, ngoài con và cháu ra, các thầy các cô còn đám học trò này. Dù không hàng ngày ở bên, nhưng luôn nhớ đến thầy cô với lòng biết ơn và yêu thương. Bạn nào ở xa chưa biết thì hãy nhớ địa chỉ nhà A14, Lô 15, khu đô thị mới Định Công nhé. 


Chủ Nhật, 22 tháng 11, 2015

Trả bao giờ cho hết


     Gần 11 giờ đêm, đang xếp mấy đồ vặt cho chuyến công tác sớm mai thì chuông điện thoại bàn reo. Phương nhấc máy nghe rồi đưa cho Sinh, giọng đay nghiến:
     “Này của nợ nhà ông đây. Rõ thật là bôi mỡ vào người cho kiến đốt”.
     Sinh lặng người, cầm lấy ống nghe, một giọng lanh lảnh: “Anh Sinh à? Em Nhung đây…”
     Sinh không trả lời, đặt ống nghe xuống, với tay rút cái dây nối vào ổ cắm tường. Anh ngồi bần thần mấy giây rồi vội vã vào buồng vệ sinh. Lúc quay ra phòng ngủ, thấy Phương nằm quay mặt vào trong, Sinh mở máy điện thoại, đặt báo thức lúc 4 giờ rồi nằm xuống. Mai anh phải đi sớm và chuyến đi có nhiều việc phải làm. Định cố ngủ nhưng Sinh thao thức mãi.
   Cây số 40 đường 128, những vòm cây rừng rậm rạp. Dòng suối nhỏ trong vắt. Sinh và Thân men theo đường nhỏ ven suối sang trạm cơ vụ 73. Thân xách theo giò phong lan rừng đang nở rất đẹp mới lấy được hôm qua. Đơn vị cậu ta ở cách chỗ Sinh gần một giờ đi bộ, trong một khu rừng già ít bị bom đạn, mùa này phong lan nhiều lắm. Thảo nào hôm nay, cậu ta cứ sang giục Sinh đi bằng được.
    “Mày mồm miệng hơn tao, mày nói chuyện là chính đấy nhé - Thân nheo nheo mắt - Ở đó có lão Đệ, xê phó, đang tán em Nhung đấy, nhưng nó không thích đâu”.
    Cái lán lợp cọ, vách cũng bằng cọ của trung đội nữ nằm sát bờ suối. Những chiếc khăn tay trắng phơi ngay ngắn trên cái dây ở hiên cho thấy dù ở chiến trường, con gái vẫn gọn gàng hơn hẳn. Trong lán chỉ có vài người chắc là trực đêm, giờ đang ngủ.
    Nhung cũng vừa được đánh thức dậy khi có đồng hương đến. Cô cuộn cao thêm búi tóc rồi dẫn hai người ra bờ suối. Dáng cao, da xanh mai mái do sốt rét, mắt Nhung thật đẹp và ánh nhìn dịu dàng. Tháng trước, Thân kể nó mê Nhung lắm. Cùng là lính thông tin, cô cậu vẫn thỉnh thoảng gọi cho nhau bằng đường dây nội bộ. Sinh thì mới gặp Nhung một lần khi đi cắt lá tranh lợp nhà, lúc Nhung đang lên trạm giao liên. Ở chiến trường, đồng hương hàng tỉnh cũng là quí, huống hồ, Thân lại cùng huyện với Nhung.
     Chuyện cứ lan man về những người mà cả ba cùng biết cho tới lúc mấy tiếng kẻng cơm vang lên ở đâu đó phía dưới. Sinh và Thân chia tay cô bạn đồng hương. Đã lội ra giữa dòng suối mà Thân còn đứng lại nói với thêm mấy câu. “Nó yêu Nhung thật rồi” Sinh nghĩ lúc cả hai đã sang tới bờ bên này, cô gái vẫn đứng nhìn theo cho đến khi hai cậu khuất hẳn trong rừng cây lúp xúp. Trên đường về, nắng oi ả, bụng đói, lại phải đi qua mấy vạt rừng tranh cháy dở vừa nóng, vừa bụi, cả hai cứ lầm lũi bước, chẳng ai nói chuyện gì.
     Một tối, cậu liên lạc đại đội gọi Sinh lên xê bộ có điện thoại. Tưởng ai, hóa ra Thân, giọng cậu ta gấp gáp:
     “Nhung bị thương rồi, mày biết chưa?”
     “Khổ thế, có nặng không? Nó đi chi viện binh trạm 12 ở Bãi Hà tuần trước mà”.
     “Tao không biết rõ, cả trạm thông tin ở đó bị trúng bom. Nghe nói bị vào đầu. Số bị thương đưa về tuyến sau hết”.
     Sinh sững người, anh biết trạm thông tin ở đó, rừng bị bom đạn nhiều, trống trải lắm, mấy căn hầm rất khó ngụy trang.
     Tháng sau, Sinh nhận lệnh ra Bắc.
     Suốt một năm vừa ôn kiến thức phổ thông, vừa học tiếng Nga ở Trường văn hóa Quân đội là một thử thách lớn với Sinh và nhiều đồng đội cùng lứa. Mấy năm trong chiến trường họ có lúc nào nghĩ tới việc lại có ngày đèn sách thế này. Lớp học chia thành từng tổ và mỗi tổ có một giáo viên kèm cặp thêm. Rồi mọi chuẩn bị cũng hoàn tất, Sinh lên đường sang Liên Xô. Sáu năm đại học và gần 4 năm chuyển tiếp nghiên cứu sinh, anh về nước vào đúng thời kì khó khăn những năm tám mươi, nhận công tác tại một nhà máy quốc phòng ở Phú Thọ và anh cưới Phương, nhà ở Hà Nội, nhân viên một công ty xuất nhập khẩu. Cuộc sống một chốn đôi quê, công việc nhiều thách thức choán hết thời gian của anh. Sinh không biết tin tức về đồng đội ở đơn vị cũ cho đến một lần về quê.
     Đang thẩn thơ chờ mẹ chọn mua thức ăn ở chợ huyện, anh gặp Phong, cùng trung đội ngày trước, quê ở Thanh Hà, đang đi bán giống cây vải thiều. Khỏi phải nói các anh mừng thế nào. Sinh kéo bằng được Phong về nhà bố mẹ mình chơi. Cho đến chiều thì tin tức về nhiều đồng đội cũ đã được Phong kể. Hơn chục năm, mọi sự thay đổi nhiều quá. Phong đã có hai con nhỏ, kinh tế rất vất vả do vợ yếu, ruộng khoán, nhà không có trâu. May mà có hơn chục cây vải của cha mẹ để lại, giờ Phong chiết cành đem bán kiếm thêm. Thân đã ở hẳn trong Nam, chẳng biết làm gì. Phong bảo: 
     “Đồng hương với nhau, tao biết thằng Thân có chí lắm, chẳng biết giờ làm ăn trong ấy thế nào mà không thấy về quê. Cái Nhung thì…mày nhớ Nhung ở trạm cơ vụ 73 không?”
     “Ừ Nhung, Nhung thì sao rồi?” Sinh hấp tấp hỏi. Phong và Nhung là người cùng huyện, thế mà Sinh cũng quên không hỏi gì về cô.
     “Hồi tao về phục viên, cũng chỉ biết nó bị tâm thần, thỉnh thoảng lại bỏ nhà đi. Có mỗi bà mẹ già, nhiều khi phải nhờ hàng xóm đi tìm nó về. Không phải lúc nào nó cũng điên, bình thường thì cũng chăm chỉ làm, hết làm ruộng lại mò cua bắt ốc. Hai mẹ con ở với nhau thôi. Nó như thế lấy ai chứ? Chữa chạy thì quanh quẩn mấy viên thuốc ở bệnh viện huyện là cao nhất, mà cũng chỉ những lúc nó bị phát bệnh thôi. Hai mẹ con giờ túng bấn lắm, mà mẹ nó thì già rồi.
     Mấy năm gần đây mới biết là cái Nhung được hưởng chế độ bệnh binh, nhưng đúng là tâm thần, nó mang hết giấy tờ về cất ở nhà mà chẳng nộp cho cơ quan nào cả. Bà cụ cũng chẳng biết gì, thấy nó hay giận dỗi khi mẹ động đến cái túi vải cất trong bồ thóc thì cũng thôi. Thì ra nó có đủ cả giấy ra viện, Hồ sơ giám định thương tật, giấy giới thiệu về Ty thương binh xã hội hưởng chế độ bệnh binh. Cho tao xem mà nó cứ gườm gườm như sợ tao lấy mất. Phải mấy lần đến thuyết phục cùng với cô em họ thì nó mới cho mang đi nộp. Nhưng đã hơn hai năm nay, đã hỏi mấy lần vẫn chưa có kết quả gì. Sao số nó khổ thế không biết”.
    Chuyện ấy làm Sinh bùi ngùi thương cảm vài hôm, rồi công việc, cuộc sống bề bộn lại cuốn lấy anh. Sinh chẳng có lúc nào nghĩ tới.
     Sinh được điều động về Viện nghiên cứu của Tổng cục Công Nghiệp quốc phòng do đề tài “Gia công nhiệt các dạng phi tiêu chuẩn” của anh ở nhà máy đã được đánh giá tốt, nay Tổng cục muốn phát triển đề tài để thay thế một số loại linh kiện đang phải nhập khẩu.
     Bắt đầu từ năm ngoái, Sinh tham gia gặp mặt một số anh em đơn vị cũ ở quê nhân dịp 22/12. Hóa ra họ đã âm thầm tổ chức như thế mấy năm rồi mà lúc đó Sinh mới biết. Cũng dịp ấy, chính Phong bảo anh hỏi Cục Chính sách Quân đội về trường hợp của Nhung: “Chúng tao về hết cả rồi, chỉ còn mày ở trong Quân đội, lại ở ngay gần Bộ, mày không giúp thì chẳng ai giúp được. Đấy tuần trước tao sang nhà nó, đúng lúc nó đang lên cơn. Nó chẳng nói chẳng rằng, mắt nhìn tao trắng dã. Mẹ nó chỉ biết khóc”.
     Sinh đã nhờ anh bạn làm ở Cục chính sách mang bộ hồ sơ vào nộp. Bạn anh bảo: “chắc là không khó vì giấy tờ còn đủ cả”. May sao chỉ gần tháng, anh đã có trong tay bản sao Quyết Định hưởng chế độ bệnh binh hàng tháng, bản kê quy đổi thanh toán số trợ cấp truy lĩnh từ khi được hưởng lên đến gần trăm triệu đồng. “Đây là quyết định của Bộ Lao động thương binh xã hội. Bản chính được gửi theo đường công văn. Phòng Lao động của huyện sẽ chi trả. Mình phải làm từ trên thế này mới nhanh được chứ cả nước, hồ sơ từ cơ sở lên nhiều lắm, đa số còn thiếu yếu tố nên chậm là thường. Có trong cơ quan này mới biết gánh nặng chiến tranh, mất mát hy sinh ghê gớm thế nào”- Bạn Sinh phân trần.
     Khi Phong báo lên là ở nhà đã nhận được trợ cấp và sổ bệnh binh của Nhung, anh vui lắm, hệt như ngày bảo vệ thành công luận án Phó tiến sĩ mấy năm trước.
     Chuông báo thức reo đến lần hai, Sinh mới choàng tỉnh, đầu nặng chình chịch. Phương càu nhàu:      “ Anh mang chìa khóa cửa đi, tôi mệt quá, bảo anh thay điện thoại bàn đi anh chẳng thay, rồi cô ta lại cứ gọi lên, tôi chịu sao được?”. 
     Sinh không nói gì. Anh khó chịu về thái độ của vợ, nhưng tự nhủ: “cô ấy không phải người xấu, chỉ là không trong hoàn cảnh của mình nên không thông cảm thôi”. Mà cũng khó thật, từ sau khi anh mang bản gốc hồ sơ của Nhung lên Hà Nội, cứ vài tuần, Nhung lại gọi điện đòi anh mang trả. Nói với Phong thì nó bảo: “ôi giời, nó tâm thần mà, mày đừng chấp. Sai lầm của tao là cho nó biết số điện thoại nhà mày. Chỉ lúc nó điên thôi, chứ bình thường nó ơn mày lắm, mày biết không, mày là thằng bạn tuyệt vời”.
     Cái lạnh buổi sớm cuối thu làm Sinh thấy đầu nhẹ hơn. Anh ra chỗ hẹn chờ xe đứng đợi. Trời vẫn còn tối. Một người đàn bà thồ rau trên cái xe đạp cũ, chắc từ ngoại thành vào, đang oằn mình trên bàn đạp. “Cuộc đời mỗi người một số phận”. Bất giác, anh lại nghĩ tới Nhung. Rồi cô ấy sẽ còn gọi anh, còn tìm gặp anh, chỉ để đòi cái bộ hồ sơ thương tật ấy. "Làm sao bây giờ?"./.











Thứ Tư, 18 tháng 11, 2015

Lớp học đầu đời


    Năm 1960 tôi đi học vỡ lòng.
    Cho đến giờ đã qua bao nhiêu lớp học từ phổ thông, bổ túc, học nghề đủ thứ, nhưng ấn tượng về lớp học vỡ lòng thì thật không gì sánh được.
    Phố Nam Sách năm ấy hình như không có lớp công lập dậy trẻ trước khi vào lớp một. Tôi nói hình như vì mình bé tí nào biết gì đâu. Lớp vỡ lòng ở khu Hoàng Hanh, gần đình Vạn. Người đầu tiên dậy tôi học chữ là bác Nha, chúng tôi gọi là bác và xưng cháu chứ không gọi là thầy. Bác Nha lúc ấy đã già, thường mặc bộ quần áo ta bằng vải thô màu gụ. Bác hay bị ho, có lúc cơn ho kéo dài và bác phải ngồi thở rất mệt nhọc. Nhớ nhất là bác có cặp kính lão đeo trễ trên sống mũi, khi nhìn xuống trò thì qua phía trên của kính, trông rất nghiêm. Bác dạy học tại nhà, trên một gác hẹp bằng gỗ lúc đi lại cứ kêu cọt kẹt, cọt kẹt.. Lớp có khoảng gần hai chục cô cậu còn thò lò mũi và có đứa còn đái dầm. Bác có một cây thước to và dài mấy chục phân, thường gõ nhịp cho trò đọc theo và để răn đe duy trì kỉ luật lớp học.
    Mỗi buổi học bắt đầu bằng việc các trò mang vở lên cho bác kẻ thêm dòng phụ bằng bút chì và viết chữ mẫu ở đầu dòng bằng mực đỏ. Chúng tôi được học viết chữ rất cẩn thận. Bác dặn: “chữ nào cũng phải có chân, không có chân thì nó ngã mất”. Còn bé, nghe bác dặn thế thì nhớ lắm, sợ chữ nó ngã thật nên chăm chú từng nét. Những chữ a, c, d, g… trần thùi lụi thì phải bắt đầu bằng một nét hất lên làm “chân”. Ngày ấy chúng tôi viết bằng bút mực, gọi là bút “dông” (?), có một cái quản bút dài thường sơn hai mầu. Ngòi bút làm bằng sắt, thường là loại ngòi “lá tre”. Mực viết thì mầu xanh hoặc tím, dạng bột, mua ở mấy bà hàng xén đem về pha với nước. Làm gì có hộp đựng bút, cái thước kẻ vuông có chia xăng-ti-met và bút thường bị mất hoặc ngòi bút bị cong vì để trong túi vải cùng quyển vở với vài thứ đồ chơi như hòn bi, con gụ.
    Cuối buổi học các trò mang vở lên để bác xem. Bác không chấm điểm, chỉ khen những đứa viết sạch, đẹp. Đứa nào vẽ bậy hay làm bẩn vở thì “được” để hai tay lên bàn. Bác cầm cái thước to tướng dứ dứ và hỏi: “vẽ bẩn thế này thì mấy thước?”, sợ chết khiếp. Chẳng biết ngày xưa mình “hậu đậu” thế nào mà hay “được” để tay lên bàn lắm. Bác hỏi thì trả lời lí nhí “một ạ”. “hôm nay bẩn hơn cả hôm qua thì một thế nào được?”. Lại lí nhí: “hai ạ”. “Đét”, giật bắn mình. Bác vụt thước xuống bàn: “hôm nay bác cho nợ”, thế mà khóc. Bác chẳng vụt bao giờ mà sợ thế, không biết tôi “còn nợ” bác bao nhiêu thước nữa cho đến ngày viết được đủ mấy chục chữ cái… 
     Nhưng một lần có một đứa bị vụt là thằng Phúc. Chả là trong lớp có cái Dung, con ông Tiếp thợ may ở cuối phố La Văn Cầu viết chữ đẹp nhất. Thằng Phúc thì ngoẹo cổ, méo mồm mà chữ chẳng ra chữ rất hay “được” để tay lên bàn. Hôm ấy nó nhờ cái Dung viết hộ, lúc mang vở lên cho bác, cậu ta hí hửng lắm. Khi bác hỏi: “ai viết đây?” thì cái Dung lại nhanh nhảu: “cháu ạ”. Thế là Phúc bị một thước vào tay. Nhưng thằng ấy gan lì lắm, chẳng thèm chảy nước mắt. Nhà Phúc nghèo, mẹ nó bán rau ở chợ Huyện. Hình như nó lớn hơn tôi vài tuổi. Nó rất thân với tôi, thường bênh tôi khỏi bị mấy đứa ở Hoàng Hanh bắt nạt.
    Gần cuối năm học vỡ lòng, con trai của bác dạy chúng tôi. Chẳng biết bác ốm hay làm sao nhưng chúng tôi không được gặp bác nữa. Ngày ấy bé quá, nào có biết gì đâu.
    Khi tôi có con đi học lớp một, hay bị cô giáo phê bình không giữ vở sạch, bố tôi bảo: “nó còn hơn anh chán, anh đi học bác Nha, mỗi ngày một lọ mực. Mực bôi từ quần áo lên đến mặt ấy chứ”.
    Quá nửa thế kỉ rồi, tôi vẫn nhớ lớp học vỡ lòng ở phố Nam Sách ngày nào. Nhớ thằng Phúc, cái Dung, nhớ cái cầu thang gỗ ọp ẹp trong căn nhà nhỏ ấy và nhất là nhớ bác Nha. Sau này gặp những bức ảnh bác Hồ trong bộ quần áo nâu là bao giờ tôi cũng liên tưởng đến bác Nha,. Bây giờ, gõ bàn phím nhoay nhoáy, nhưng tôi vẫn có thói quen chép những bài thơ của mình trên giấy bằng những con chữ đầu tiên học từ bác Nha, người thầy dạy chữ đầu tiên của tôi./.


Thứ Năm, 12 tháng 11, 2015

Chỉ còn mình em


(Lần đầu tiên trong đời, một bài thơ viết tặng vợ lại được đăng trong một tuyển chọn và được thưởng tiền (đủ mua bó hoa tặng vợ). Xin khoe với cả xóm nè.

Chắc là em vẫn chờ
Một bài thơ xuân đón tết
Như tự bao giờ chẳng biết
Em chờ thơ anh.
Nhưng em ơi lòng còn băn khoăn
Như cuộn len trăm mối
Anh âm thầm gỡ rối
Một mình canh khuya...
    Những bài thơ viết tháng ngày qua
Giữa bộn bề công việc
Vẫn ngân lên những vần tha thiết
Anh yêu nghề, và anh yêu em
    Nghề chọn anh, khi anh đã chọn em
Chỉ một tình yêu mà chia làm hai ngả
Anh trong đắm say ở giữa
Lúc nào cũng chông chênh...
      Anh yêu em từ lúc tóc còn xanh
Anh buông tay nghề, lúc trên đầu tóc bạc
Mấy chục năm, thỏa chí trai khao khát
Anh tung hoành trong thế giới ngổn ngang
Chẳng nhớ hết đâu những việc đã làm
Chỉ đọng lại trong anh rất nhiều gương mặt
Đã cùng sẻ chia ngọt bùi, đắng chát
Âm thầm những tấm huân chương
Trằn trọc nghĩ suy, thao thức những đêm trường
Đến người thân còn không hiểu nổi
Nỗi ám ảnh nghề, như say mê một người con gái
Thất bại, hi sinh, đau đớn đến tột cùng
Và vỡ òa trong sung sướng lúc thành công
Mấy người biết? nào đâu cần ai biết
Bao thế hệ đã vì nghề sống chết
Anh đi tiếp con đường oanh liệt ấy của cha ông
Đã 70 năm ngành Tình báo Quốc phòng...
    Giờ anh về với em
Về với tình yêu từ thời trai trẻ
Anh không tựa vào nghề, ngả về bên này nữa
Phút chống chếnh ngả nghiêng, em có hiểu anh không?
    Gần hết cuộc đời, cháy hết tuổi thanh xuân
Cho nghề, cho em, giờ là "ông già khó tính"
Như chiếc đồng hồ cũ rồi, làm sao điều chỉnh
Cứ tích tắc, ngập ngừng, nhanh chậm giữa thời gian
    Ngoảnh nhìn kìa, đồng đội của anh
Gánh nặng đường xa, ôi thương yêu nhiều lắm
Nhưng không thể nữa rồi, ghé vai cùng gánh
Anh đứng lại bên đường, hướng về phía quân đi
    Đón anh về, đưa anh về đi
Tình yêu lớn, làm lòng anh bối rối
Anh sẽ sống phần đời còn lại
Không có nghề, chỉ còn lại mình em.../

Thứ Ba, 3 tháng 11, 2015

Một ngày xóm Nam

         (tặng Xuân Thảo, Tô Hà)
Cứ như là về với anh trai
Về với mẹ ở Đồng Nai hôm ấy
Những người lính của cha gặp lại người em gái
Chiến tranh qua lâu rồi, cha cũng đã đi xa…
Mừng người anh dựng lại ngôi nhà
Bao chìm nổi, chắt chiu, tần tảo
Anh như chim đầu đàn đã bay trong gió bão
Một đàn em, nay kẻ mất người còn
Nước mắt mẹ già đã mấy héo hon…
Nào ai biết đến đâu là hạnh phúc?
Ai đo đếm thế nào là được, mất?
Anh chỉ biết dựng nhà, để lại đức cho con
Trảng Bom giờ cũng một đất quê hương…
Mà vui thế, mắt tràn mi, anh hát
Giọng ấm lắm và thường khi sai nhạc
Có hề chi, anh đang hát cho mình
Giữa đàn em, giữa đồng đội nghĩa tình
Rồi ngày mai lại mỗi người một ngả
Mỗi người mang đi một phần ngọn lửa
Đã cháy bùng lên, sưởi ấm mỗi con tim
Những người anh và những đứa em…
                               3/11/2015



Chủ Nhật, 1 tháng 11, 2015

Gửi Đồng Nai

Cả nhà vào trong ấy
Ôi vui quá là vui
Trong cách trở xa xôi
Vẫn mừng theo các bạn
Kìa ai đang bận rộn
Đón khách quí tân gia
Kìa ai tươi như hoa
Ngất ngây trong hạnh phúc
Giữa cuộc đời có thực
Dẫu mấy là gian truân...

Tay nâng chén nhạt rưng rưng
Nhớ chăng ngày tháng giữa rừng đói cơm?

Thứ Ba, 27 tháng 10, 2015

Tháng tới anh về

Không đếm tháng, đếm ngày
Như hồi còn đi học
Mà xếp ra từng việc
Những việc đã làm xong
Biết là em chờ mong
Tháng ngày sao dài thế
Cửa nhà sao quạnh quẽ
Môi ai vắng nụ cười
Cách xa sắp qua rồi
Nhớ thương dồn nén mãi
Sao Thời gian dừng lại?
Hãy quay đi, Thời gian
Quay nhanh nữa, nhanh hơn
Tháng sau thì chậm nhé
Cho ngày dài thêm nữa
Và đêm hãy dài hơn
Cho tôi uống tình em
Từng giọt, từng giọt một
Môi em nồng vì ngọt
Dẫu qua nhiều đắng cay
Cho tôi nâng bàn tay
Của nhọc nhằn lam lũ
Cho tôi ru em ngủ
Dẫu lời ru vụng về,,,
     Mùa thu chưa kịp về
Mùa hạ vừa quay gót
Đứng ở giữa thời gian
Ngập ngừng chân ngại bước...

Thứ Bảy, 24 tháng 10, 2015

Khúc hát ngày hè


    Anh bỗng nhớ về đất nước
Khi bầu trời châu Âu không một cánh diều
Khi không gian vắng tiếng ve kêu
Những trưa nồng nắng hạ
Không có những cánh đồng phơi gốc rạ
Cho anh đi bắt ốc sớm tinh mơ lúc chưa mọc mặt trời
Những con ốc to gần bằng nắm tay người
Nuôi một niềm vui tìm kiếm
Đôi cẳng chân đen, chiếc giỏ tre lủng liểng
Anh đã lội đi khắp mấy cánh đồng
     Rồi lớn lên đi khắp những khu rừng
Của Trường Sơn hai mùa mưa nắng
Đi dưới những cánh rừng chết trắng
Giữa mùa hè thèm một bóng mây che
Những con đường anh đã đi qua
Những kỉ niệm suốt một thời trai trẻ
Theo anh mãi với cuộc đời mới mẻ
Chẳng bao giờ anh quên…

    Anh bỗng nhớ em
Giữa gương mặt những người thân thuộc
Cô bạn học cùng bàn thuở trước
Có cái bút chì cả lớp dùng chung
Bọn con trai mỗi lúc dùng xong
Cứ đòi em đến tận nơi mới trả
Anh ghen tị với từng thằng bọn nó
Để ngày nào cũng mượn bút của em
Những ngày sơ tán học đêm
Đèn em tắt nhiều bàn tay châm hộ thế
Anh đã sống những ngày vui, buồn lặng lẽ
Bởi em đẹp nhất làng trong mắt bọn con trai
    Rồi anh đi tháng rộng, năm dài
Khẩu súng, chiếc ba lô, những nẻo rừng đất lạ
Những Tha mé, Tà roong, Sê xụ
Cùng bao người trai trẻ chúng anh đi
Cho đến ngày đất nước rợp cờ hoa…
                         
     Chào đồng đội, chào núi rừng Đắc Lắc
Súng gửi lại cho những người giữ đất
Anh trở về mùa nước lớn quê ta
Nước ngập đồng gần, nước trắng đồng xa
Ngày hai buổi dầm mình trong đất ướt
Bao mẫu lúa đã qua tay em vớt
Cái no đói của làng trong thân lúa mỏng manh
Bốn năm rồi em đã đợi anh
Chẳng lẽ mười ngày anh vội
Chờ cho lúa xanh đồng anh mới hỏi
Có dám cùng anh đi khắp đất trời
Mà sao chỉ thấy em cười
Mắt em lấp lánh sắc trời mùa Thu…

    Con bỗng nhớ mẹ cha
Dáng mẹ dịu hiền, dáng cha khắc khổ
Lo cho con bữa ăn còn chưa đủ
Vẫn dạy con lẽ sống ở đời:
Trước người khổ đau, chớ có mỉm cười
Thấy kẻ nghèo hèn, đừng nên khinh bạc
Thấy người giầu sang, cũng đừng vồ vập
Mỗi con người đều có một nét hay
Học ở người con sẽ lớn từng ngày…
    Đời cha khổ
Mười ba tuổi đã đi ở đợ
Quanh năm cởi trần, roi vọt quanh năm
Bắc Giang, Hải Phòng, Lạng Sơn
Cha đã sống những tháng năm cơ khổ
Mẹ không đi ở đợ
Nhưng đời mẹ buồn, không có tuổi thanh xuân...
      Ngày con đi, mẹ cha tiễn đến bên sông
Thuyền rời bến vẫn còn đứng đó
Bóng như tạc lên sắc trời ráng đỏ
Sông Bến Vạn, chiều 13 tháng 5
       Con đã qua cái tuổi mười lăm
Dại dột, lỗi lầm phiền lòng cha mẹ
Đã qua tuổi hai mươi người lính trẻ
Được thưởng huân chương vội gửi tin về
Đã qua tuổi hăm ba giữa một ngày hè
Mẹ cha đón con dâu trong tiếng pháo
Và trưa nay, giữa trời Âu nắng tràn vườn táo
Con sang tuổi ba mươi
Những ngày hè cứ cháy mãi không thôi…

     Nỗi nhớ vẫn khôn nguôi
Chập chờn bom đạn
Bỗng nhớ về bè bạn
Những năm đất nước chiến tranh
Thằng Khoát cao lênh khênh
Tao vẫn gọi đùa mày là thằng Khoác
Dạo ở Xê Băng Hiêng sốt rét
Mày vét cho tao những thìa sữa cuối cùng
Dứt loạt Bê năm hai đánh giữa đội hình
Vẫn quờ đầu tao hỏi còn hay mất
Sống với bạn vô tư chân thật
Bây giờ về nghèo túng thế Khoát ơi…
     Thằng Tình ở Văn Giai
Tính nết chịu thương chịu khó
Có tài câu cá
Hay hờn hay dỗi như đứa trẻ con
Lúc bị thương
Chỉ sợ chết không có ai nuôi mẹ
Trận lũ quét ở ngầm Tha Mé
Một mình cứu mấy thương binh…
     Nhớ bạn cùng làng Thảo (Thơm)
To cao nhất xã
Hành quân đường dài, ba lô của tao mày mang cả
Mắc võng giữa rừng, bao giờ cũng chung tăng
Hết chiến dịch 14 ngày hành quân
Sốt li bì, tao bám mày cố bước
Rồi cái đêm tao cắt sốt
Mày ra bờ suối tìm rau
Có tìm được cái gì nhiều đâu
Nắm rêu đá mang ống bơ để luộc
Mà kỳ lạ, mạnh hơn cả thuốc
Tao khỏe người, đâu phải chỉ vì rau
Mà bây giờ ở đâu, ở đâu?
Sao đang học lại bỏ về làm ruộng?
“Cứu cả nhà”, ừ, công mày đâu uổng
Nhưng giờ nghe nói đã vào Nam…
     Nhớ Chiến, nhớ Thọ, nhớ Sơn
Nhớ Tuân, nhớ Quốc
Hãy thắp một nén hương cho thằng Bồng đã mất
Chết mà không tìm được xác Bồng ơi
Đã hơn một lần phải để nước mắt rơi
Đắp cho bạn thêm vài xẻng đất
Hôm nay kẻ còn, người mất
Ngoảnh lại đã mười năm
Vẫn không thôi giọt nước mắt thương thầm…
                                            Xô-phi-a 9/1984



Thứ Tư, 21 tháng 10, 2015

Cảm tưởng đầu tiên khi đọc Mùa quả muộn


     Ít có tập thơ nào mà tôi đọc liền một mạch như Mùa quả muộn. Bây giờ có nhiều người in sách lắm, nhất là sách thơ. Khác với khi xem các thể loại văn chương, cách tôi đọc thơ rất lạ, chỉ cần vài bài giở ngẫu nhiên mà không rung động thì có cố cũng không đọc được nữa. Thế mới khâm phục những người làm biên tập, thích hay không cũng phải đọc cho hết chứ không thể như người thưởng thức. Nhưng cuốn ‘Mùa quả muộn’ thì khác.
     Đọc đến bài thứ tư “Phố đêm”, tôi phải trở lại bài thứ nhất “Gọi em” và đọc lại. Chợt thấy sởn cả gai ốc. Lâu lắm rồi mới thấy một cảm giác như vậy. Một niềm thương cảm dâng lên trong lòng khiến sống mũi cay cay. ‘Gọi em’ là tiếng gọi gần như vô vọng. Hình dung người đàn ông không giấu nổi nỗi buồn và cất tiếng gọi, gửi vào đó tiếng lòng mình. Khung cảnh quanh nhà với hàng ổi, hàng doi, ao cá quen thân; nhìn mấy đứa con ngây thơ chạy nhẩy, vô tư líu lô, có lúc nào chúng nhắc hay đòi mẹ không nhỉ. Tất cả làm cho nỗi nhớ thương càng cháy bỏng. Niềm thương nhớ ấy gắn với một nỗi lo lắng thực sự hiện hữu: Xã bên, huyện bên, tỉnh bên, trên đài, trên báo có nhiều chuyện buồn và thương tâm lắm. Cùng cực kiếm sống, đã không ít người lỡ bước sa chân, không dính vào hàng cấm thì có khi cũng tha phương ở nước người. Thế là lo lắng, đêm đêm “giấc ngủ chập chờn”. Rồi chẳng làm gì được, có khi là không có tin tức gì về người vợ đang xa, chỉ biết mong “em ơi về ở cùng anh”. Câu thơ được nhắc đi nhắc lại như một lời thổn thức, cứ mong thế, cứ gọi thế. Người đàn ông tin rằng lời gọi ở tận cùng thương cảm của mình sẽ đến được người ở xa. Chẳng biết chị có nghe thấy chăng, và nghe thì có quyết bỏ hết mọi việc mà về chăng, nhưng người đọc, dù không trong cảnh ấy mà cũng rùng mình khi đọc câu thơ đứt ruột kia.
     Gọi đấy mà cũng là tâm sự đấy: em mà có làm sao thì anh bơ vơ lắm. Người đàn ông gần như cả đời chỉ gắn với chữ nghĩa, mà chữ nghĩa thực sự thì chuyện áo cơm không phải chuyện đùa(!), rồi đây “lấy gì nuôi được con thơ”, và cả bản thân anh nữa, cậy nhờ ai hôm sớm?.
     Gọi đấy mà cũng là lời hứa đấy: Anh vẫn đợi chờ em, cả cái không gian này “bốn mùa gió trăng” vẫn đang đợi em, dù nghèo khó rồi “nợ nần trang trải dần lâu cũng mòn”, em cứ về đây dù “vơi bát cơm ăn” nhưng sẽ vui trong cảnh thanh bần.
     Gọi đấy mà cũng để nhắn gửi “cầu cho em được bình yên”. Chỉ cần thế thôi, tiền bạc lúc này không quan trọng nữa, chỉ cần không có chuyện gì xẩy ra với em thì đã là một hạnh phúc. Nhân gian đã nói từ đời nào: “còn người, còn của”, “còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”…
      Và trên tất cả là mong mỏi một tương lai sum vầy, trong mùa xuân của trời đất cũng là mùa xuân lòng người khi đoàn tụ, cùng chung nâng cốc rượu đầy, anh vẫn như ngày nào, la đà say men nồng tình yêu bởi em má đỏ ửng hạnh phúc. Tiếng gọi khẳng định một tương lai quyết không chia xa một lần nữa cho tới lúc rời khỏi cuộc đời với câu kết “trăm năm ta sống một nhà bên nhau”.
Bài ‘gọi em’ phải đặt cạnh bài ‘phố đêm’ mới thấy hết bức tranh đời thường cảm động ấy. Từ khi gọi đến lúc này đã 4 năm (1990-1994), không ai biết những gì đã xẩy ra trong thời gian đã qua. Nhưng giờ người vợ đã về ở cùng chồng con và đang lo toan cuộc sống thường ngày với một “gánh hàng”.          Bà vợ ông Tú Xương ngày trước cũng “quanh năm buôn bán ở mom sông”, cũng “lặn lội thân cò khi quãng vắng”. Nhưng bà vợ trong bài thơ ‘phố đêm’ thì đích thị là “con cò mà đi ăn đêm” rồi. Những cái đêm của huyện lỵ vùng bán sơn địa kia nào có nhộn nhịp gì cho cam. Dám chắc là ít người qua lại, ít người mua, “người thưa” thớt lắm và “em ngồi bán ổi bán na”. Mấy món quà quê quen thuộc ấy lại bán ở cái nơi cũng là đồng đất quê mùa, nào có thiếu gì những cây ổi, cây na trong các nhà nửa phố, nửa quê. Thế đủ biết là gánh hàng chắc chỉ vài đồng vốn còm, hoặc là người đàn bà này mang trái cây vườn nhà mình bán lẻ để kiếm được hơn một vài đồng, thay vì bán cả vườn cho người ta vào hái quả.
      Nhưng cái gánh hàng còm cõi là cả một cơ nghiệp để lo chuyện áo cơm kia đấy. Vì người chồng tài hoa cặm cụi đọc, cặm cụi viết, cặm cụi dịch như là cái nghiệp đã vướng vào thân chứ phải đâu là nghề chữ nghĩa kiếm tiền. Anh bảo “thơ anh chỉ đổi được tràng vỗ tay”, là so với cái hiện thực lo bữa ăn hàng ngày từ cái “gánh hàng” của em thôi, chứ người đời đọc những gì anh viết không thể nghĩ như vậy. Không nghĩ như vậy, nhưng cũng mới chỉ có những “tràng vỗ tay” thật. Thơ viết ra, đọc cho bạn bè nghe, cho học trò nghe thì khen, nhưng phải bỏ thêm tiền ra mua chính thơ mình để tặng cho đủ những người cần tặng. Thế thì so làm sao được với “gánh hàng” của em. Cái cách nói này là đề cao công lao người vợ lắm. Người vợ nào không sung sướng khi được chồng biết đến cái công lênh ấy.
    Đọc bài ‘phố đêm’, không còn cái bi ai của ‘gọi em’ nữa. Giờ thì tác giả đã nhận thấy “thoáng bay hương đồng”, đã thấy “bầu trời cao tít” và cơ man nào là sao trong cái dải Ngân Hà kia. Tôi phải đọc đi đọc lại câu “bóng em nhỏ tối như là chấm đêm”. Đúng rồi, chấm đêm, chấm đêm. Một từ không thông dụng, chưa thấy mấy người dùng. Ô hay, cả cái vũ trụ này, cả cái dải Ngân hà kia, cả cái không gian huyện lỵ về đêm kia đã đọng lại, tập trung lại một điểm thôi, trong con mắt người viết (đang đi tìm vợ mà), chỉ là một điểm thôi. Người viết này giỏi cả toán nữa, một điểm, một chấm thôi, nhỏ lắm, nhưng thiêng liêng lắm, là một thành tố khó định nghĩa trong toán học và người ta hiểu với nhau nó là tiên đề, nó có sẵn, không chứng mình được. Thấy chưa, một niềm vui vỡ òa trong anh khi nhìn thấy “chấm đêm” ấy. Ai đã đi tìm người thân trong đám đông, trong không gian rộng lớn lại không có cảm giác đó. Có mà không nói ra được, thì đây, ông Tuân nói hộ đây rồi: một “chấm đêm”, nhưng là cả vũ trụ, phải không? Giờ thì trong tôi đã có thêm một từ mới “chấm đêm”, nó gắn với một người phụ nữ gian khổ, nhọc nhằn lo cho chồng con có được một bữa ăn, một tấm áo mới. “chấm đêm”, tôi yêu và xin cúi đầu trước những “chấm đêm” ấy.

     Phần lục bát có nhiều bài hay. Nhưng với tôi, hai bài ‘gọi em’ và ‘phố đêm’ là điển hình nhất. Mùa quả muộn không phải mạnh ở phần lục bát, phần thơ thất ngôn bát cú đặc sắc hơn nhiều. Nhưng giờ chưa phải là lúc nói đến phần đó. Dừng lại ở phần lục bát, nếu làm biên tập, tôi sẽ bỏ một số bài, vì nó làm loãng cái hồn người viết. Nhưng đó là “nếu”. Tôi vẫn có trong tay cả một tập thơ với bao tâm tình, mời gọi sẻ chia. Hiểu được một phần trong đó, nhất là phần thơ kiểu cổ cũng là hạnh phúc lắm thay./.

Thứ Bảy, 17 tháng 10, 2015

hỏi bà


Bà còn vất vả bà ơi
Các cháu thì bé còn tôi thì già
Hôm nay sinh nhật tặng hoa
Mong bà càng khỏe cả nhà đều vui
Thương bà - thương miệng, thương môi
Giúp bà lo cái thân tôi là cùng
Chưa phong Bà mẹ anh hùng
Là chưa tỏ hết tấm lòng tri ân
Chờ cho Quốc hội bầu xong
Tôi vào Quốc hội tấn phong cho bà(!)

Cháu Thỏ với cháu Lu Na
Đứa nào cũng muốn có bà ở bên
Nhí nhăng là cái thằng Nem
Nó nào đã biết nhường em đâu nào
Tiếng Anh tiếng Việt lộn nhào
Bà nghe chẳng hiểu, nó gào nó la
Một cháu, giờ đã là ba
Bế bồng e lúc tay bà còn đau
Quản gì nhọc đến mình đâu
Bà lo, tôi cũng theo sau phụ bà
Mong con, mong cháu đầy nhà
“Cháu yêu bà lắm”
                           hỏi bà 
                                      "sướng chưa"?
                                           18/10/2015



Thứ Năm, 8 tháng 10, 2015

Đi xe buýt



Vừa làm một “cuốc” xe buýt ngang qua Hà Nội. Ngày mùa thu rất đặc trưng với nắng vàng và gió nhẹ, với lá khô rụng xao xác trên hè. Lòng thanh thản và thêm yêu cuộc sống.
Chẳng là hôm nay có cuộc họp mặt những người cũ của cơ quan cũ. Không thấy mình lấy chùm chìa khóa xe, bà xã tưởng quên. “Hôm nay tôi đi xe buýt”. Mắt bà vợ mình tròn xoe, ngó trân trân mấy phút, rồi thoáng một nụ cười mỉm. Chắc bà ấy tự an ủi đã quen với cái “hâm hâm” của một ông… đang già?
Đây là chuyến xe buýt đầu tiên sau hơn hai mươi năm ở Hà Nội. Với mình thì đó là một sự lạ, chứ người ta đi xe buýt Hà Nội từ bao đời rồi. Bố anh bạn cùng cơ quan mình, ông Bộ trưởng Bộ Văn hóa về hưu, hơn 80 tuổi vẫn ngày ngày đi xe buýt từ nhà lên câu lạc bộ Thăng Long, hoặc đến thăm cháu ở tận Nghĩa Đô. Bạn học với mình, anh Trang trong truyện ký “Hành trình đến Dinh Độc lập”, từng lái chiếc xe tăng 380 “sứt mũi” trong chiến dịch Hồ Chí Minh vào chiếm Phủ Tổng thống Sài Gòn, giờ cũng thường xuyên xe buýt. Hắn bảo: vừa đỡ tốn tiền, vừa tiện lợi đủ đường, nhỡ gặp ông bạn nào, vui vẻ cốc bia, chén rượu, khỏi vi phạm Luật Giao thông. Mấy năm trước Bộ trưởng Đinh La Thăng còn dẫn đầu đoàn cán bộ đi thử xe buýt Hà Nội. Sau đó, hình như có cuộc vận động công chức ngành giao thông đi xe buýt đến công sở, chẳng hiểu giờ có mấy người thực hiện.
Nhưng còn có nhiều lời kêu ca xe buýt Hà Nội lắm. Xem trên mặt báo thì biết: nào là chậm chuyến, bẩn thỉu, có khi mất cắp, nhà xe thì thô lỗ, hách dịch…vân vân và vân vân..
Chứng kiến của mình thì không phải thế, ít nhất là trong chuyến này.
Ra đến điểm đỗ gần nhà vừa đúng 7 giờ, đã thấy một xe số 50 tà tà vào vỉa hè. Xe đông, nhưng vẫn có chỗ cho người len vào đứng. Hai tay mình đu lên cái vòng nhựa trên thanh ngang, người lắc lư theo nhịp phanh và ga của bác tài xế.. Một cô gái đứng lên khỏi ghế bảo: “bác ngồi xuống đi”. Mình hơi ngơ ngác, nhìn quanh toàn những gương mặt trẻ. Khi hiểu đó là đặc ân dành cho mình thì bối rối cảm ơn cô gái và ngồi xuống ghế. Liếc lên phía đầu xe, vách ngăn sau lưng bác tài xế treo tấm bảng ‘Quy định dành cho nhân viên và hành khách’ rất văn minh. Phía trên cửa lên xuống có sơ đồ tuyến và các bến đỗ rất cụ thể. Tiếng cô phát thanh viên qua máy ghi âm rè rè: “bến tiếp theo là…” trong tiếng ồn hơi khó nghe. nhưng vẫn hiểu được. Đang giờ cao điểm buổi sáng, trên đường đông nghịt các loại phương tiện. Xe buýt hay ra vào các điểm đỗ nên phải cạnh tranh vất vả với xe máy, xe đạp, xe thồ, các bà hàng rong và cả người đi bộ. Lại còn một ông to béo, mặc áo phông in nhiều chữ nước ngoài, cưỡi cái xe máy phân khối lớn. Một tay cầm ga, tay kia cầm “cương” hai chú chó giống quí, to như hai con bê, chạy thể dục bước một trên đường. Mình cũng là người biết lái xe, nhưng phải công nhận là các bác tài xe buýt có tay nghề rất cao mới có thể điều khiển được cái xe kềnh càng thế này trên đường Hà Nội. Hỏi cô gái đứng gần xem mua vé thế nào thì được trả lời: “anh phụ xe sẽ đến bác nhé”. Tuy nhiên, chắc xe đông quá nên chẳng thấy anh “lơ xe” đâu làm mình sốt ruột. Thỉnh thoảng lại ngó lên phía trước, vẫn cô gái ấy bảo: “Họ đến ngay đấy mà, bác cứ yên tâm”
Nhớ hồi sinh viên ở một nước Đông Âu những năm 80 thế kỉ trước. Các loại xe buýt, xe điện, xe điện bánh hơi đều chung một loại vé to bằng ngón tay cái, được bán sẵn ở rất nhiều ki-ốt. Hành khách lên xe thì tự bấm lỗ ở một trong những cái hộp trên thành xe chứ không có người bán. Thỉnh thoảng sẽ có một ông hoặc bà nào đó lên xe, trên ve áo có cái huy hiệu ‘Thanh tra’. Họ đi lướt qua và nói: “Xin lỗi, kiểm soát vé”. Mọi người chìa vé đã bấm lỗ ra. Chỉ những trường hợp nghi ngờ họ mới cầm vé để xem. Phát hiện trường hợp đi lậu, họ lấy trong túi ra một xấp vé, bấm vào máy 30 chiếc rồi yêu cầu người vi phạm thanh toán, chẳng cần hóa đơn, biên bản gì ráo. Mình được chứng kiến một lần, tuy họ không ồn ào nhưng người bị phạt cũng rất xấu hổ và xuống ngay bến gần nhất. Nói vụng là hồi đó, sinh viên cũng hay trốn vé lắm. Có cậu giỏi toán, tính rằng tổ hợp 6 cái lỗ trên máy bấm sẽ lặp lại ở …n lần.. để giữ lại tất cả vé đã bấm lỗ, lên xe chỉ cần để ý xem cái ma trận 6 lỗ ấy thế nào, rồi tìm cái vé cũ tương ứng cầm sẵn ra tay. Nếu không có vé cũ trùng hợp thì quan sát người lên ở bến, nếu thấy Thanh tra thì lẳng lặng ra cuối xe và xuống bến tiếp theo. Một lần, đi với mấy tay sành sỏi như vậy, không mất vé nhưng mình cứ nháo nhác, và có cảm giác bị…đau tim, chẳng khác nào xem đội tuyển bóng đá Việt Nam chơi với đội Thái Lan bây giờ.
Thế nên mới sốt ruột. Chẳng phải sợ mất tiền phạt mà xấu hổ nếu người ta kêu mình sao không mua vé.
Đến điểm đỗ trường Đại học Luật thì người xuống vãn. Trên xe chỉ còn hơn chục người đứng tuổi, mấy bà cụ mặc áo dài mầu gụ, ý hẳn đi đền chùa và mấy ông già hưu trí đang tranh luận chuyện …hiệp định xuyên Thái Bình Dương. Anh phụ xe mặc đồng phục giờ mới đi xuống giữa xe. Mình mua vé, tiện hỏi luôn xuống bến nào cho gần. Thái độ nhân viên nhà xe ấy thật chu đáo. Anh ta dặn mình bến xuống, còn hướng dẫn khi quay về nếu vẫn đi tuyến này thì bến đỗ ở chỗ ấy, chỗ ấy... Chẳng thấy cái khó chịu ở đâu, cũng chẳng thấy người nhà xe “hách dịch” chỗ nào.
Xuống xe gần đầu đường Thanh niên, mình thả bộ trên con đường tuyệt đẹp sắc thu buổi sớm Hà Nội. Thấy hai ông già đang chúi đầu vào bàn cờ tướng, mình ghé nhìn vào. Ông cầm quân đỏ đang bị chiếu bí, xem ra đã hết phương kháng cự. Ông kia thì cứ giục đi đi chứ, mà ông này vẫn chẳng chịu thua cho. Một nhóm các bà tuổi “sồn sồn” đang tập bài thể dục theo nhạc phát ra từ cái cát-xét để trên ghế đá. Bài tập giông giống như Thái cực quyền 24 thức, hệ phái Dương gia, còn nhạc thì âm hưởng réo rắt hệt như trong phim Tây Du Ký. Một đôi nam nữ, dùng luôn yên cái xe máy dựng sát một gốc cây to làm ghế, đang tâm sự và mắt nhìn lơ đãng ra hồ Trúc Bạch.
 Hà Nội ơi, không phải nơi sinh ra, nhưng đã sống ở đây nhiều nhất trong cuộc đời. Một Hà Nội đẹp và đáng yêu thế này mà hôm nay tôi mới nhận ra…
Đến nơi gặp đồng nghiệp cũ, kể lại chuyến buýt hài lòng vừa đi thì một ông phán: “Ôi dào, ông gặp may đấy. Hôm nay là ngày gì mà xe buýt ngon thế?. Với lại, nhà xe nó tưởng ông là quan chức “vi hành” nên lễ phép vậy thôi, chứ còn thì…” Ngắm lại mình, ừ nhỉ, quần kaki thẫm, áo kẻ nhạt, giầy đen, cặp kính gọng mạ sáng loáng, mình không giống một người lao động lam lũ hay ông già về hưu tí nào.
Nhưng một cảm xúc lạ dâng trào. Tại sao không tổ chức được một hệ thống xe buýt để thay đổi thực trạng giao thông Hà Nội thường xuyên kẹt xe nhỉ? Một hệ thống mà các nước đã làm cách đây hàng mấy chục năm? Một hệ thống mà người dân chấp nhận được và có thiện cảm? Thiếu tiền ư? bao nhiêu dự án, bao nhiêu tỉ đồng đã đổ vào đây rồi? Thiếu phương án ư? Đã bao nhiêu hội nghị, hội thảo, có cả chuyên gia Pháp, Nhật kia mà? Bộ trưởng Thăng cũng quyết liệt “trảm tướng, trảm quân” dữ lắm kia mà? Vậy thì tại sao?
Đem cái tâm sự này đến gặp ông bạn học thời sinh viên, giờ là chuyên viên cao cấp của Cơ quan quy hoạch, phát triển thành phố thì được dội một gáo nước lạnh: “Thắc mắc của ông là đúng. Người ta biết hết rồi, biết kĩ hơn ông nhiều. Nhưng không làm được là vì…không làm, thế thôi. Ông có hỏi là những ai đi xe buýt không? Những người phải đi xe buýt là vì ít tiền và không có quyền. Những người có quyền thì không đi xe buýt. Như ông đấy, giờ mới đi xe buýt lần đầu cơ mà. Ông nghĩ làm gì cho tổn thọ”.

Nhưng mình không thất vọng. Một ngày đẹp trời không cho người ta thất vọng. Nhất định sẽ đến ngày Hà Nội có xe buýt thuận tiện hơn, chí ít cũng được như chuyến đi này. Đây sẽ không phải là “cuốc” xe buýt đầu tiên và cuối cùng của mình được. Mình sẽ đi xe buýt, giống như ông bạn xe tăng của mình, giống như ông Bộ trưởng đáng kính kia, giống bao nhiêu người khác nữa. Càng nhiều người đi xe, sẽ càng sớm có thay đổi hiện trạng xe buýt Hà Nội. Lòng mình chợt vui vui, nhìn đám trẻ con lớp mẫu giáo nào đó, đang nắm đuôi áo nhau, theo các cô giáo qua đường và nghĩ: Thế hệ kia sẽ có nhiều xe buýt hơn, văn minh hơn trong tương lai không xa, và khi đó lại có thêm một lý do nữa để thêm yêu Thủ đô Hà Nội./.

Chủ Nhật, 4 tháng 10, 2015

Bài thi cắm hoa của em





















Em đứng trước những gốc cây khô cháy
Bom đạn thù làm đất đá tả tơi
Tiếng em nói giữa chừng bỗng nghẹn
Cuộc chiến tranh qua đã lâu rồi...
Em đang kể về Ngã ba Đồng Lộc
Về những ngày chiến tranh tàn khốc
Về những ngày em chưa có trên đời
Về những ngày chống Mỹ sục sôi
Tay nâng nhẹ những nhành non lá mới
Em đưa chúng tôi qua thảm cỏ xanh
Nhìn tít tắp về chân Hồng Lĩnh
Cuộc sống sinh sôi, đất nước yên lành
Rồi đến trước tượng đài liệt sĩ
Mười cô gái em gọi tên từng chị
Về đây đi trong hương khói nồng nàn
Về đây đi giữa những người thân
Và em cắm mười bông hồng bạch
Bông tươi nở, bông còn đang e ấp
Đây chị Tần A trưởng đứng trên cao
Chị Cúc ơi, vừa mới chin buồng cau
Đây chị Rạng chiếc áo còn khâu dở
Chị Hợi ơi mẹ vẫn chờ trước cửa
Các em còn nhắc mãi chị Hường ơi
Hai chị Xuân thì đứng sóng đôi
Chị Nhỏ đứng nép vào, e lệ
Chị ơi, tiếng em bỗng nhẹ
Mắt em nhìn đâu đó xa xăm
Môi thầm thì, em khẽ gọi chị Xanh
Thế hệ hôm nay không qua chiến tranh
Trong hạnh phúc vẫn nhớ về các chị
Có chút rưng rưng trong lời em kể
Có niềm tự hào về những chiến công
Em thể hiện xong rồi phần thi tài năng
Cả hội trường lặng đi trong giây lát
Rồi tiếng vỗ tay òa lên không dứt
Giám khảo cho em trọn vẹn những điểm mười
Đâu chỉ là ý tưởng của em thôi
Uống nước nhớ nguồn đã thành đạo lý
Mười cô gái qua lời em kể
Giữa cuộc đời, sống mãi tuổi thanh xuân./.


Đón em về

     Tay em trao lương tháng cuối cùng
Giọng như lạc: tháng sau em nghỉ
Hết tuổi rồi, ai mà chẳng thế
Mà bỗng dưng như thấy em buồn
    Rời quê hương, xa nhà cửa ruộng vườn
Lên Thủ đô theo chồng bao là khó
Đôi bàn tay quen với khoai, với lúa
Em đi học nghề lúc sang tuổi bốn mươi…
     Mùa thu về rồi em ơi
Hà Nội trong nắng vàng và men say ngây ngất
Hồ Tây mùa này đẹp nhất
Sương giăng mỗi sớm mờ xa
Đã có lúc nào thong thả đôi ta
Dắt tay nhau ngắm mặt hồ lặng sóng?
Khi ngày dần trôi, chiều buông xuống
Mặt hồ tím biếc, lung linh
Cảnh sắc đẹp vô cùng sao không có chúng mình?
Em đang ở đâu vào thời khắc ấy
Trên xe buýt, tắc đường, giữa mịt mù khói bụi
Hay giữa chợ đông người, con cá mớ rau?
Còn anh, anh ở đâu?
Giữa ngập đầu công việc.
Hết tháng này rồi làm sao anh biết
Em có yên lòng cho những phút thảnh thơi?
     Cuộc đời mà, em ơi
Như con sông nhiều khúc
Đoạn trong, đoạn đục
Cứ miên man chảy giữa đôi bờ
Không phải lúc nào cũng đẹp như thơ
Nhưng đều nặng phù sa cho cuộc đời mẩy hạt
Đến khúc quanh rồi, sông rẽ sang ngả khác
Chia tay xưởng Viên Hoàn, em về hẳn với anh
      Tóc trắng trên đầu vẫn nhớ những ngày xanh
Ta nâng niu những gì đang có
Dắt tay nhau ngày mai cùng vượt khó
Anh mở cả lòng mình, sung sướng đón chờ em…
 


Thứ Bảy, 3 tháng 10, 2015

Nói với hoa anh đào

     Ai đã từng đến Thủ đô nước Mỹ, Oa-sinh-tơn DC, nhất là vào đầu mùa xuân đều không thể quên được Lễ hội hoa anh đào. Khu vực nổi tiếng The Mall, thật quyến rũ với những di tích, đền thờ những người lập nước, trong đó có bức tường tưởng niệm chiến tranh Việt Nam, khắc tên 58.282 lính Mỹ chết trận. Nơi đây còn thu hút khách thập phương bởi một rừng cây anh đào, mà 2000 gốc đầu tiên là do nước Nhật mang tặng từ 1912. Khoảng đầu xuân, khi rừng hoa trắng phớt hồng nở rộ thì tuần lễ hội hoa anh đào được tổ chức. Quả thực là rất đẹp, khi những cây hoa soi bóng mặt hồ trong lung linh nắng đầu xuân.
     Năm đầu tiên ta mở Đại sứ quán tại Mỹ để lại ấn tượng vô cùng lớn trong những người Việt Nam cả từ hai phía. Những người cộng sản, trong tư thế người chiến thắng, mang cờ đỏ sao vàng treo lên giữa Thủ đô Oa-sinh-tơn. Những người thua trận, sống lưu vong thì biểu tình liên miên và treo giải thưởng hàng nghìn đôla cho ai giật được lá cờ ấy xuống. Nhiều người Mỹ thì tìm đến Bức tường tưởng niệm chiến tranh Việt Nam để tìm tên người thân. Cái chua xót là vì Mỹ không thắng trong chiến tranh Việt Nam, nên những người cựu binh hoặc người đã hy sinh trong cuộc chiến đó cũng bị xã hội muốn quên đi như chính cuộc chiến. Công cuộc hòa giải giữa những người Việt Nam, giữa người Việt Nam và Mỹ đã qua nhiều chặng cam go và vẫn đang còn nhiều thử thách phía trước.
       Các cơ quan đại diện Việt Nam tại Mỹ đã có cuộc hội ngộ đầu xuân nhân lễ hội hoa anh đào. Nhân viên ngoại giao đầu tiên được cử đến Mỹ là những người giỏi, được lựa chọn kỹ lưỡng. Nhưng không phải tất cả họ hiểu rằng: để có lúc treo lá cở đỏ sao vàng lên giữa thủ đô Oa-sinh-tơn, đã có bao nhiêu máu xương của những con người bình thường, vô danh phải đổ xuống. Tiếng nói của Sứ quán có sức nặng hay không là ở 70 triệu người phía sau lưng. Chính nhân phẩm của những con người giản dị, hữu danh và vô danh ở Việt Nam trong suốt 30 năm đã làm cho nước Mỹ chấp nhận một nước Việt Nam thống nhất. Nâng lá cờ trên tay, giữa thủ đô nước Mỹ trong những tháng ngày ấy, thật cảm động biết bao. Bỗng thấy mình phải lớn thêm lên và thực sự đã lớn hơn con người thực của mình.
Bài thơ được viết trong dịp đó.




    Mong mãi anh đào ơi, sao năm nay đến muộn
Chưa nở tưng bừng rực rỡ đắm say
Bạn ta ở xa, không chờ lâu được nữa
Mấy năm mới có cuộc vui này
    Ta cũng đến từ Phương Đông ấy
Gần em thôi mà giờ mới biết nhau
Người xưa tặng em cho miền đất hứa
Sao đến quê ta họ gây lắm thương đau?
    Ta cũng muốn có gì đem tặng
Quê hương ta cũng đào thắm, mai vàng
Không muốn Việt Nam chỉ mãi là biểu tượng
Năm mươi tám nghìn cái tên khắc ở trên tường
    Tấm lòng ta bao dung hồn nước Việt
Vòng tay bạn bè nối khắp năm châu
Hỡi ai đó còn lạc đường ngoảnh mặt
Con cáo kia, chết còn hướng về núi quay đầu
    Như bao người lần đầu đến Oa-sinh-tơn, ta đã rơi nước mắt
Nhìn cờ đỏ sao vàng ngạo nghễ tung bay
Vâng, thưa Bác, con đến nơi Người từng đi một mình trong bão tuyết
Với đội ngũ đủ đầy, và cờ tổ quốc trên tay
    Sau lưng ta là 70 triệu con Hồng, cháu Lạc
Là những bà mẹ anh hùng chưa kịp vinh danh
Là những nông dân từng cưỡi xe tăng chiếm dinh Độc Lập
Những em bé vùng sâu chưa có tấm áo lành…
    Buổi sớm đầu xuân dưới rặng anh đào chớm nở
Ngỡ cuộc đời cứ đẹp thế bình yên
Mà đây đó vẫn bom rơi, đạn nổ
Nhân loại đã bao giờ được sống bình yên?
     Hãy cứ vô tư nở trắng rừng khoe sắc
Khoe mầu phấn hồng như má các em thơ
Anh đào nhé, sang năm đến hẹn
Ta lại cùng chia sẻ phút suy tư…


Em bắt đền đi

     Sắp sinh nhật bà xã, chợt nhớ bài sau đây.

     Một lần, ngày sinh nhật bà xã, buổi sáng đi làm đã tự nhủ: Hôm nay về mua hoa. Nhưng rồi đó là một ngày căng thẳng với bao nhiêu công việc đột xuất, không cả nghỉ trưa, mấy anh em lăn lộn đến 8 giờ tối mới xong. Về đến nhà tầm gần 9 giờ, bà xã ra mở cửa, không nói gì mà quay vào ngay. Chà chà, chuyện gì đây? Ra đường sợ nhất công nông, về nhà sợ nhất vợ không nói gì. Thấy mâm cơm vẫn úp trên bàn, không hiểu sao lại nói một câu tệ nhất trong năm: Chưa cơm à? Anh đã dặn 7 giờ không thấy anh về thì mẹ con ăn trước cho con học bài cơ mà? Thằng con lướt qua nói rất nhỏ: Bố không mua hoa à? Trời ạ. Thế là vợ giận. Từ đó tới đêm, nàng không nói gì hết. Gần sáng, không ngủ được. Dậy viết mấy câu để lên gối cho vợ trước khi đi làm như một lời xin lỗi. Thế mà hiệu quả đấy, hihihi...
   
    EM BẮT ĐỀN ĐI

Sinh nhật em, anh chẳng quên đâu
Nhưng bận quá nên anh về muộn
Đợi anh hoài và em hờn giận
Giá mà em cứ nói: "bắt đền"!

"Bắt đền đi". Anh sung sướng trăm lần
Sẽ đưa em đi gội đầu trên phố
Sẽ vào bếp nấu cơm, đọc thơ em nghe nữa
Bắt đền đi, em bắt đền đi...

Công việc của anh, em không thể sẻ chia
Chỉ biết nói rằng anh rất bận
Xin em lần này, dẫu đã nhiều lỡ hẹn
Phải vì anh mải vui bạn đã đành...

Đất nước mình dẫu không có chiến tranh
Nhưng rình rập đó đây bao hiểm hoạ
Không chỉ riêng anh đâu, còn bao người nữa
Thức canh cho đất nước hoà bình
... Và anh cứ chờ, em nói BẮT ĐỀN ANH.../.


Thứ Tư, 30 tháng 9, 2015

Đến Khổ hạnh lâm

    Người ta nói, trên đời này có một chữ Duyên. Khi còn nhỏ, tôi chỉ hiểu là cái duyên của một người con gái: Đẹp phải có duyên mới mặn mà. Có người không phải đẹp “sắc nước hương trời” nhưng nếu được khen là có duyên thì cũng nhiều người yêu mến. Đến khi lớn hơn, biết thêm còn cái duyên kì ngộ. Con người ta có duyên với nhau. Chàng trai người dân tộc nào nhỉ, nhặt được chiếc khăn Piêu thì tha thiết hỏi: “ Chiếc khăn đây là mối nối duyên nhau, thời tôi chờ”. Còn nữ sĩ Hồ Xuân Hương thì đanh đá: “Có phải duyên nhau thì thắm lại, đừng xanh như…” .
    Và còn cái duyên khác nữa.
    Làm việc dài ngày tại Ấn Độ, có lần tôi bị xì-trét nặng. Sáng chủ nhật đang lang thang trong công viên cạnh một đền thờ, tôi đã gặp một nhà sư Việt Nam vóc dáng nhỏ gầy, gương mặt phúc hậu ngồi nghỉ trên ghế đá. Chắc thấy bộ dạng của tôi, nhà sư cất tiếng hỏi. Qua câu chuyện, tôi biết nhà sư đang chuẩn bị về Bodhgaya, nơi được gọi là đất Phật ở Ấn Độ. Ông hỏi tôi đã đến đó chưa và có muốn đi không? Đang cần thay đổi tâm trạng mình, tôi nói ngay là muốn đi. Hóa ra, đường cũng xa lắm, xấp xỉ nghìn cây số và khi đó chỉ phương tiện tầu hỏa là phù hợp nhất. Tầu ở đây thực sự là loại tầu “chợ”, thời gian chạy là 17 tiếng đồng hồ. Nhà sư đã có vé, bảo tôi: “anh cứ ra ga, nếu có duyên, anh sẽ đi được”. Sáu giờ chiều, tôi tìm nhà sư ở ga Nizamudin và mua vé ghế dự bị. May sao, trước giờ tầu chạy 10 phút, tôi được lên tầu. Và thế là có chuyến hành hương không định trước đến đất Phật.
    Trong suốt hành trình, nhà sư đã kể cho tôi nhiều chuyện về miền đất ấy và sự tích của Phật giáo. Thì ra, Đức Phật vốn là một người thực, hoàng tử của một vương quốc (nằm trong đất Ấn Độ, Nê Pan ngày nay), ông đã từ bỏ kinh thành, vợ con, để đi tìm câu trả lời: tại sao con người sinh ra lại khổ đau, bất hạnh, bệnh tật và chết. Ông đã tu luyện nhiều nơi, đã nghiền ngẫm chân lý trong một hang đá trên lưng chừng núi (hang Khổ hạnh). Lúc đầu, theo con đường hành xác, ngày chỉ ăn vài hạt đậu hoặc vừng, ông đã kiệt sức tưởng chết. May có người chăn dê ở rừng cây Sê sam bên dưới thấy ông gục trong hang đã đổ cho ông bát sữa dê. Từ đó, ông chuyển sang ăn để đủ sống, để tu luyện (giáo lý Trung Đạo). Đến một ngày, có lẽ đã tìm ra chân lý của mình, ông ra bờ sông Ni Liên Thiền, thả một bình bát (?) và khẩn cầu: nếu con đường đã chọn là đúng thì bình bát hãy trôi ngược dòng. Được biết ngay chiều hôm đó, ông đã lội qua sông, sang khu vực nay là Bồ đề Đạo tràng. Tiếp tục thiền định 49 ngày nữa dưới một gốc cây bồ đề lớn và khi tự mình giác ngộ, Ngài, giờ đã là Đấng Giác Ngộ, xuống tắm dưới một hồ sen và từ đó giảng giáo lý của mình cho những người đầu tiên…
    Năm ngày ở đất Phật, nhà sư đã cho tôi thăm nhiều nơi, trong đó có lễ phát chẩn ở rừng cây Sê Sam và thăm hang Khổ hạnh. Tôi có duyên chăng để được gặp nhà sư Việt Nam kia, có duyên chăng để đến nơi này một cách bất ngờ như thế? Chỉ biết rằng chuyến đi đã đem lại nhiều hiểu biết hơn về Phật giáo, tiếp cho tôi nguồn năng lượng mới, không chỉ đủ vượt qua những khó khăn ở thời điểm ấy.



                Đến Khổ hạnh lâm
   Ở nơi nào trong gió trong mây
Ở nơi nào trong lá trong cây
Trong những tảng đá ngổn ngang bờ dốc thoải
Còn vương lại điều Người tự hỏi
Đâu cuộc đời bất diệt mai sau?
    Sống ở trên đời ai không có nỗi đau
Nhưng bỏ cả ngai vàng dễ mấy?
Tôi đã đến ngồi vào hang đá ấy
Nghe gió núi thì thầm kể chuyện người xưa:
     Mấy hạt vừng ăn đâu để cầu no
Bát sữa dân lành mang bao triết lý
Rừng Sê Sam, đã bao mùa thay lá
Đã bao đời cây, đã mấy đời người?
     Ni Liên Thiền lặng lẽ nước sông trôi
Đâu bình bát ngược dòng năm tháng ấy
Trong sắc nắng một chiều vàng sắp lụi?
Tôi bỗng rùng mình:
Nếu bình bát trôi xuôi?
     Nếu trôi xuôi bình bát ấy nhỏ nhoi
Thì ánh sáng trong Người có tắt?
Thì thế giới có không đất Phật?
Bao con người sẽ sống kiếp bơ vơ?

    Trăng cũng vừa lên khỏi cánh rừng xa
Soi rõ bước chân Người quả quyết
Và gió sông gửi theo Người câu hát
Trong hành trang cuộc đời, thoát khỏi cảnh trầm luân…

    Có tiếng ai nấc nhẹ sau lưng
Lại một tấc lòng đau cầu nguyện
Ra khỏi hang trong mùi hương nến quyện
Thấy trong lòng sống lại lúc trẻ thơ
    Tuổi lên mười nghe bà niệm nam mô
Và theo mẹ lên chùa dâng oản chuối
Quá nửa cuộc đời hôm nay mới tới
Thả hồn mình trên đất Phật mênh mang…

                               Bodhgaya, Ấn Độ

Thứ Ba, 29 tháng 9, 2015

Tiễn em ở ga


Những lần tiễn đưa em ở ga
Cứ bận rộn với bao nhiêu suy nghĩ
Anh chưa được một lần ngắm kỹ
Dáng hình khu nhà ga Trung tâm.

Khi còi tầu đột ngột vang ngân
Là bịn rịn bàn tay em vẫy
Anh cứ muốn chạy về hướng ấy
Nơi con tầu đưa em đi xa...

Rồi vắng vẻ đến lạ lùng sân ga
Anh bồi hồi đếm từng viên đá lát
Nghe văng vẳng đâu đây em hát:
"Đường làng em cây dóng hàng đôi..."

Sao yêu làng quê thế em ơi
Cô gái của Thủ đô, phố phường vui năm tháng?
Em có biết những mùa lụt trắng?
Bà thương cháu nhỏ phải ăn khoai
Mẹ thương con không chỗ đùa chơi
Lúa chết ngập, mắt cha quầng mất ngủ
Anh đi chiến trường cũng giữa mùa nước lũ
Tiếng trống cứu làng theo đến tận Trường Sơn...

Em có biết những mùa nắng chói chang
Ruộng nứt nẻ, lúa níu người đòi nước?
Mẻ miệng gầu này thì thay gầu khác
Lúa chết nghẹn đòng, ai nỡ ngồi yên...

Từ làng quê như thế lớn lên
Bát cơm mặn mồ hôi của mẹ
Anh bỗng thấy cồn cào nỗi nhớ
Khi câu làng quê hát ngọt trên môi.

Đừng hát câu ấy nữa em ơi
Cho anh những phút giây yên lặng
Lòng thanh thản như bao người lính
Khẩu súng thúc cạnh sườn, nhịp bước hành quân..

Cho anh một phút thôi bớt nỗi băn khoăn
Cho trẻ giọng cười, cho tươi giọng hát
Cho mỗi bước anh đi, đất chạm đều hai gót
Cho anh theo kịp với đời...

Con tầu đưa em đi xa rồi
Đèn đỏ cuối đường ke nhấp nháy
Anh ra khỏi nhà ga chỗ ấy
Vẫn chưa kịp ngắm nhìn nhà ga...


Thứ Hai, 28 tháng 9, 2015

Mơ em

Em thường đến trong giấc mơ anh
Thật đến mức tỉnh rồi còn tiếc mãi
Nếu đầu như Ai phôn, anh sẽ cài ghi lại
Để xem một mình, những lúc nhớ em...

Chiếc ban công

Chiếc ban công với mấy chậu cây
Loay hoay mãi, kê kê đặt đặt
Thêm hai ghế nhỏ vào quá chật
Một chiếc thì vừa, nhưng sao hết cô đơn?

Lần đầu dự họp Xóm Tri ân

Nghe bạn giới thiệu, đã vào trang Tri ân xem "ké" từ mấy tháng rồi. Hầu như ngày nào cũng mở xem có gì mới không. Thấy bài của người quen như thầy Tuân, các bạn cùng học như Xuân Thảo, Nguyệt hay Tô Hà thì phải xem ngay, thích lắm.
Rồi bạn rủ về họp mặt. Tự nhiên thấy chông chênh.
Muốn được gặp lại những người quen.
Bạn nhưng ít gặp dù ở quanh Hà Nội như cánh Nguyệt, Khoản. Thì mỗi thằng một hoàn cảnh. Đều là cánh đã về hưu mà đâu có dễ bốc lên là đi được. Nhớ lúc mới chuyển cả nhà lên Hà Nội, ở trong ngõ hẻm thuộc Khương Trung. Đường vào chỉ đi vừa cái xích lô, lại hơn chục ngả rẽ ngoằn ngoèo như trận đồ bát quái. Mình chuyển đến hôm trước, hôm sau về muộn khi trời đã sập tối, loay hoay mãi cả chục phút hết ngõ nọ đến ngõ kia mà cũng không tìm ra ...nhà mình. Có người dân cảnh giác, thấy mình lượn lờ mấy lần, hỏi anh tìm nhà ai. Chả lẽ lại bảo tôi tìm nhà tôi!. Chán thật. Thế mà chúng nó tìm được và kéo đến nhà chơi mới tài. Xe máy nổ ầm cả xóm, mấy con chó nhà bên được dịp lạ, sủa nhặng cả lên. Hôm ấy nhà bé tin hin, không bàn ghế, trải cái chiếu cũ trên nền đất. Món ăn chẳng có gì ngoài lạc rang, mấy bát canh khoai nấu xương mà mấy thằng làm hết can rượu mang ở quê ra. Đêm muộn mới về, ngõ hẹp, xe máy chở nhau suýt lao gẫy cổng nhà hàng xóm. Giờ đã hơn hai chục năm qua rồi. Nhiều lần đã cùng ngồi nhậu với nhau ở những chỗ khác, thức nhắm ngon, rượu bia có nhãn mác hẳn hoi mà chưa có cuộc nào để lại ấn tượng như hôm ấy. Thì lúc mới lên Hà Nội, bơ vơ, chưa quen biết ai. Vợ con còn ngơ ngác như "gà con lạc mẹ" các bạn học tìm đến chơi sao mà không cảm động. Chẳng biết hôm ấy mấy thằng "chém gió" thế nào, động viên ra sao mà bà xã vui và tự tin hơn hẳn. Sáng sau bảo mình: “em phải kiếm việc gì làm, người ta sống được thì mình sống được”. Chả bù hôm trước, nàng bảo: “em đưa con lên cho anh thôi, bố con anh nuôi nhau, em về với ruộng vườn, chứ ở đây mà chết đói cả nút à” (!) Mà chúng nó thì hoàn cảnh cũng na ná vậy. Có đứa còn vất vả hơn ấy chứ, nhất là thằng Khoản. Rồi thời gian trôi đi, mọi khó khăn hội nhập cũng lần lượt qua đi. Bọn trẻ con rồi cũng lớn lên, đi làm, lấy vợ và sinh con.. cuộc đời một thoáng đã hai mấy năm...
Thầy cũ và Cô giáo cũ trong xóm Tri Ân, nhiều người mình biết chứ. Và muốn gặp.
Thầy Tuân dạy văn nổi tiếng ở Cấp 3. Mình không được học trọn vẹn cấp 3 và không được ở lớp thầy, nhưng biết rằng văn học dân gian, Truyện Kiều, các tác giả Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu thì thầy Tuân giảng hay lắm. Học trò thích học văn cũng là vì thầy giảng hay. Mình đã có lần ngồi ngoài cửa sổ lớp bên cạnh để nghe thầy giảng Kiều, quên cả về giờ học kỹ thuật bên lớp mình. Rồi các thầy còn làm báo bảng ở sân trường, học sinh luôn chen nhau ngồi chép. Những áng văn thơ cổ đặc sắc làm nội dung tham khảo tuyệt hay, không phải của "Ông Đồ" Tuân chuẩn bị thì còn ai vào đấy nữa. Nhiều lúc nghĩ, các thầy gieo vào mình lòng yêu văn học, giác ngộ văn hóa và nhân cách một cách từ từ, dung dị mà chắc chắn biết bao.
Thầy Minh Tư dậy toán lớp A, nhưng thỉnh thoảng thầy dậy lớp mình. Số là cái lớp C (khóa 69-72) long đong lắm. Môn toán do thầy Tạc, hiệu phó, Bí thư chi bộ nhà trường đảm trách. Nhưng thầy hay đi họp, nên các thầy khác phải dậy thay. Nhớ thầy Tư, da ngăm ngăm, nói nhanh, viết bảng nhanh. Thầy quen giảng cho lớp A, toàn bọn giỏi, lớp mình theo vất vả lắm. Giờ toán chả bao giờ biết trước là thầy nào dậy. Hôm thì thầy Hùng, hôm thì thầy Tư. Cứ trống vào lớp nhìn con đường nhỏ dưới khu giáo viên đi lên, đoán già, đoán non thầy này, thầy khác. Chỉ đến khi thầy bước vào lớp mới chắc dậy lớp mình. Thầy Tư ít kiểm tra miệng, nhưng hỏi những câu sợ lắm. Nhìn thầy rê rê cái bút trong sổ, thằng nào cũng run. Danh sách học sinh theo vần ABC, mình ngồi bàn đầu, áng chừng sắp tới vần N là tim đập thình thịch. Có lúc thầy đã lướt qua, thở phào, nhưng rồi chẳng gọi tên trò nào, bút của thầy lại rê ngược lên, khiếp vía.
Thầy Hùng dậy Hình học cực hay, trình bày bài giải trên bảng còn đẹp bằng mấy học trò làm trên giấy. Sau này mình luôn gắng theo mẫu ấy của thầy. Bài nào không làm được thì thôi, đã làm là rất đẹp, bao giờ cũng ăn điểm tối đa.
Thầy Tạc ít dậy, không có đặc điểm nào đáng nhớ hơn là thầy nóng tính. Đứa nào hay nói chuyện riêng rất dễ bị ăn một viên phấn. Nhớ ngày đầu vào lớp 8, thầy hỏi: "ai tổng kết toán 5 giơ tay lên" (điểm cao nhất hồi đó). Cả lớp hơn chục cánh tay giơ lên. Mình học toán cũng khớ mà chỉ tổng kết 4 cộng (4+), huých thằng Thu ngồi cạnh bảo: "nhiều thằng giỏi nhỉ". Dứt lời, ăn một mẩu phấn vào trán đánh cốp và một câu quát: "hai cậu kia đứng dậy. Không muốn học thì ra ngoài" , sợ chết khiếp. Sau một tháng, hóa ra chúng nó cũng giỏi vừa thôi. Mình được thầy Tạc rất quí và gọi là: "con gà chọi của tôi" và cử mình làm Cán sự môn toán (ghê chưa?). Giờ thầy đã về với thiên cổ. Mỗi lần về quê, đi qua nhà thầy, lại nhớ thầy quá đi thôi.
Môn toán được học vất vả vậy nhưng cũng giúp mình vượt qua kỳ kiểm tra vào lớp 10 bổ túc văn hóa sau khi kết thúc chiến tranh. Bài kiểm tra đơn giản lắm: một bài   rút gọn dùng 7 hằng đẳng thức đáng nhớ, một bài hình tính độ dài một cạnh, một bài lượng ngắn, cậu nào nhớ được: "cốt cộng cốt bằng 2 cốt cốt" là giải được. Thế mà đến quá nửa phòng thi lại quên, hỏi nhau cứ loạn cả lên. Mình viết xong trước 10 phút, nộp bài ra sớm. Thầy nhận bài, liếc qua bảo; nhớ giỏi đấy. Sướng đã đời. Sau này học toán cao cấp trong đại học, rồi học chuyên ngành kỹ sư kết cấu, kiến thức toán đòi hỏi rất nhiều. Nhớ lại những ngày học toán cấp 3, lại nhớ thầy Tư, thầy Hùng, thầy Tạc…
Suốt cả tuần cứ háo hức mong đến ngày 22/9. Hà Nội có mấy thành viên của xóm Tri ân mà rồi hôm ấy cũng mỗi người đi một cách. Sáng sớm, trời mưa to. Thằng cháu rủ về vì nó có việc nhà, nhưng phải đi lối Hải Dương và đi trước 5 giờ sáng. Thôi cũng tốt, chứ ra đường mà ngóng xe khách chả biết bao giờ mới đến nhà. Đi thì đi thế thôi, chứ cũng còn đang phân vân lắm. Hay là mình đến thật muộn nhỉ, để mọi người qua phần họp gặp mặt hay diễn văn gì gì đó đi. Cứ nghĩ đã là gặp mặt một năm một lần thế nào chả có phần lễ lạt, mình dự phần ấy có vô duyên không. Lại sợ về dự thì vui nhưng rồi chả đóng góp được gì cho xóm, lại ngại. Đang loay hoay thì cô Trưởng xóm gọi, thấy mình nói đang về, có thể đến muộn. Nàng phán một câu xanh rờn: “muộn cũng được, nhưng phải có mặt”. Thế là hết đắn đo.
Đến cửa khách sạn Sao Đỏ, đã có Trưởng ban tổ chức đứng đón ở thềm. Cái bắt tay nồng ấm làm mình thấy tự tin hơn. Vào sảnh nhìn thấy một loạt bô lão ngồi trên mấy ghế sô pha mà chẳng quen ai cả.
Nhưng rồi được giới thiệu. Ông cao lớn ngồi kia với cái máy trợ thính luôn kêu lẹt xẹt là thầy Bùi Trác Trường. Ông ngồi cạnh, trông hiền hiền và nho nhã là cây viết thơ rất khỏe Văn Nhã. Đối diện là bác Hiểu, vợ chồng thầy Mạnh. Trông trong avatar thầy Mạnh có vẻ phong trần lắm mà gặp người thực thì thấy không phải vậy. Chắc tại cái áo phông khoe bắp tay trong bức ảnh làm mình lầm. Bác Sử, vừa trông thấy mọi người đã gọi kèm với biệt danh: người đàn ông chung thủy nhất hành tính. Chà, chắc là có nguyên cớ chi đây. Ngồi cạnh là nhà thơ Tạ Anh Ngôi. Mình xem trong trang thì thấy ông này cũng chịu khó post bài và ảnh lắm. Cô Trưởng xóm xăng xái lo gọi nước uống, kéo bàn ghế ngồi đợi cho mọi người gần nhau và có ý làm mình bớt cái bỡ ngỡ ban đầu với xóm. Tô Hà giới thiệu người chị em mang một cái tên rất đẹp: Thi Nhân. Mà không chỉ tên đẹp. Một chút miền Trung làm sáng cả căn phòng. Rồi mọi người lần lượt đến. Vợ chồng thầy Tuân, cô Song Thu đây rồi. Thầy ôm theo một bọc to, ồn ã tay bắt mặt mừng với mọi người. Bạn Thế, một người liên quan đến khởi thủy của trang Tri ân đến, dáng người vẫn cao to mà già hẳn đi sau tang lễ bà mẹ. Rồi Khoản và Quý đến. Một người tóc bạc trắng mà phong cách rất trẻ, khập khễnh đi bên ông bạn tề chỉnh như quan chức. Hai người cũng là được bạn bè rủ về dự lần đầu nhưng gặp thầy, gặp bạn cũ vui lắm. Trời vẫn mưa nặng hạt, nhưng người được mong chờ đã đến. Nguyệt đeo túi dết đội mưa bước vào. Đó cũng là một nhân vật trong nhóm tổ chức buổi gặp mặt nên vội vã hết thì thầm với Trưởng xóm lại bàn bạc gì với nhân viên khách sạn. Cái túi dết căng phồng hóa ra là mấy quyển sách rất dầy. Mình đoán là sách mới, chắc tác giả lại bỏ tiền mua thêm để tặng đây mà. Một người đi xe máy từ Bắc Giang xuống là bác Phong, cũng là người nặng tình ân nghĩa với xóm này.
Dù còn đợi vài người, nhưng đã hơi muộn, ban tổ chức mời mọi người vào phòng trong. Bốn cái bàn tròn xếp trước một tấm phông lớn với dòng chữ Họp mặt xóm Tri Ân năm 2015 (phần này xem trong video của nhà thơ Tạ Anh Ngôi thì rõ hơn). Căn phòng ấm cúng thật phù hợp với không khí buổi gặp mặt. Rồi cô Trưởng xóm giới thiệu thầy Tuân mở màn. Ông giáo già mà tâm hồn lạc quan, sức nghiên cứu, đọc và viết người trẻ còn khó theo kịp. Mấy câu chân tình càng tạo sự gần gũi cho mọi người. Thầy Tuân đã chuẩn bị một bộ 4 quyển mới in làm quà tặng cho những người mới. Mình cũng sung sướng được nhận một gói sách do chính tay thầy ký tặng. Giọng thầy mấy chục năm mình vẫn thấy quen, chậm rãi, rõ rang đầy cuốn hút. Đúng lúc đó thì nhà thơ Thanh Dạ xuất hiện. Trông ông nhỏ bé hơn mình tưởng tượng, mái tóc dài, đuôi mắt như cười, mình thấy ông nhang nhác giống nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu. Khi chào hỏi từng người, mình nhận thấy ông cũng vui và đùa hóm hỉnh lắm. Ông lôi ra một quyển lịch lốc to gần cỡ giấy a4 và bảo: “Tớ viết nháp thơ luôn vào mặt sau từng tờ lịch cho dễ nhớ ngày tháng”. Mình liếc nhìn thấy nét chữ nghiêng viết vội, nhiều gạch xóa mà rụt đầu lè lưỡi phục ông già. Hình như ông có rót thử một chén rượu để bớt cái lạnh của mưa hay sao ấy. Trông ông thật nghệ sĩ. Người đến sau cùng là thầy Minh Tư. Ông to béo hơn, chắc do tuổi tác, dù khoe mới lăn lộn với cái nhà mới xây ở tận Đông Triều. Rồi lần lượt các thành viên của xóm tiếp lời nhau sau một năm chỉ gặp nhau trên mạng. Mấy khách mới đến được ưu ái giới thiệu và đọc thơ, coi như chính thức được vào xóm. Phần ăn uống và vui văn nghệ sau đó thì giống nhiều cuộc gặp mình đã dự. Có khác chăng thì là tiết mục ngẫu hứng đi vài điệu van của bạn Khoản, đúng với phong cách rất trẻ mà mình từng biết.

Mọi người chia tay nhau và rời Sao Đỏ lúc trời đã ngớt mưa vào buổi chiều. Ngồi trên xe về Hà Nội, một cảm giác hạnh phúc tràn ngập lòng mình. Cái ấm áp, gắn bó bè bạn và thầy trò thật khó có gì thay thế được. Rồi cuộc sống đời thưởng sẽ xô đẩy ta đi. Nhưng mỗi ngày mở trang Tri ân, như lại gặp những người thân thiết kia. Đọc một bài viết, xem một bức ảnh lại sẽ thấy cả con người, sẽ có một nguồn năng lượng vô hình sưởi ấm lòng ta. Lòng biết ơn, đúng thế, là một phẩm chất của con người. Những gương mặt cũ mới của xóm lần lượt hiện ra trong một tâm trạng lâng lâng thật khó tả. Nhớ câu thầy Tuân nói khi kết thúc: cần có thêm nhiều thành viên, cần những gương mặt mới. Mình là người mới đây rồi, nhưng có góp được gì mới cho Trang Tri ân không đây…

Thứ Ba, 22 tháng 9, 2015

Lan man về cái liềm

     Thầy Minh Tư hỏi: "Phải Nghị ở Tân Dân không? Phải con ông Hữu lò rèn không?. Họp phụ huynh, bố cậu bảo: cháu nó cứ phải dẽ 7 cái liềm cho tôi rồi mới học bài". Vâng, đời học sinh cấp 3 của tôi là thế. Nhà có nghề lò rèn, tôi phụ giúp cha mẹ, giống bao đứa con  nhà nông khác giúp gia đình công việc đồng áng mà thôi. 
      Thế mà đêm mất ngủ. Cứ nghĩ lan man về cái liềm.
Hầu hết bạn của tôi ở nông thôn, ai mà chẳng biết và nhiều kỉ niệm với cái liềm. Thằng bạn thân, lính lái xe tăng  vào dinh Độc Lập ngày 30 tháng 4, viết mấy tiểu thuyết chiến tranh đầy ắp sự kiện, hồi nhỏ phụ cha đánh xe bò kéo, chắc cũng có nhiều thời gian làm bạn với cái liềm. Thằng bạn sống chết một thời lửa đạn, giờ làm ông chủ tiệm thịt dê nổi tiếng Đồng Nai, ngày bé nhà nghèo chẳng gắn với cái liềm thì lấy gì mà ăn. Mấy thằng bạn ở Phố Thiên, phố Phả Lại thì có thể không phải cầm liềm hồi trẻ con, nhưng chúng nó đều là đảng viên, sao không biết cái liềm được (!)?
     Cái liềm gắn với người nông dân và nông thôn từ bao giờ chẳng rõ. Thân phận của nó cũng thú vị lắm chứ. Này nhé, về giá trị tài sản nó chẳng phải là "đầu cơ nghiệp" một thời như con trâu. Nó không hoành tráng như cái cày, cái bừa. Thậm chí không được "trân trọng" nâng niu đặt trên vai như cái cuốc. Nhưng cái liềm là biểu tượng của nông dân đấy. Không phải chỉ của bà con nông dân Việt Nam thôi đâu mà của nông dân mấy chục nước. Hãy xem trên lá cờ của các Đảng Cộng Sản thì biết. Nghe nói cờ búa liềm xuất hiện từ cách mạng tháng 10 Nga đầu thế kỉ trước và năm 1924, Hiến pháp Liên Xô đã chính thức thông qua lấy búa liềm làm biểu tượng cho Quốc kỳ và Quốc huy. Khởi nghĩa Xô Viết Nghệ Tĩnh oai hùng của cách mạng Việt Nam đầu những năm 30 cũng đã giương cao lá cờ búa liềm rồi. Máu đã đổ, phong trào bị đàn áp dã man. Nhưng ngọn lửa Xô Viết Nghệ Tĩnh đã âm ỉ trong lòng dân tộc để đến sự ra đời nhà nước công nông. Ai là đảng viên Đảng Cộng Sản mà không giơ tay thề trước cờ búa liềm?
      Có người bảo: cái liềm được đưa làm biểu tượng cho nông dân vì nó đơn giản trong thể hiện, chứ vẽ cái búa và con trâu chẳng hạn thì người nhiễu sự lại nghĩ là nhà ba-toa à (!). Nếu vẽ cái cầy, cái bừa gì đó cùng với cái búa thì do kích thước và hình thể e rằng giai cấp nông dân lại hoành tráng hơn giai cấp công nhân ư?. Tán đùa thế cho vui chứ chọn cái liềm là quá chuẩn, không phải chỉ vì tính đơn giản của biểu tượng. Thì đấy, thế kỉ 20, người ta đưa lên mặt trăng một cái thước tính loogarit để làm dấu mốc cho trình độ khoa học kĩ thuật hay trí thức của loài người trên trái đất này đâu chỉ vì nó đơn giản dễ làm biểu tượng?
    Là trẻ con lớn lên ở nông thôn miền Bắc nửa sau thế kỉ trước, ai chẳng thấy cái liềm gắn với người nông dân hàng ngày. Liềm để cắt cỏ nuôi trâu bò. Cứ dắt được con trâu ra đồng là đã biết cầm liềm đi cắt cỏ rồi. Chỗ cỏ tốt, hoặc cuối Xuân sang Hè thì cỏ được cắt bằng 2 tay, một tay nắm phần ngọn cỏ, tay kia đưa liềm thoăn thoắt. Mùa Thu Đông, cỏ cằn cỗi thì hai tay nắm chuôi liềm, nạo cỏ ven bờ mương, bờ đê, rồi rũ đất đi lấy phần cỏ chỉ có gốc với rễ. Vớ được củ khoai lang, quả ổi xanh thì cái liềm liền biến thành con dao, mấy đứa bạn cắt chia nhau ngọt ngào đến thế tuổi thơ...
   Liềm để cắt lúa, một năm đôi ba vụ. Cái hồi chưa có máy gặt đập như bây giờ thì cái liềm là chủ lực. Thường thì ruộng xăm xắp nước. Các mẹ, các chị một tay quơ lúa, tay cầm liềm cắt xoẹt, nghe ngọt xớt. Đầy nắm tay lúa thì cái liềm trong tay kia nâng dưới đầu ngọn lúa trĩu hạt để nhẹ nhàng đặt nắm lúa ấy xuống chờ xén và lượm. Cái liềm trong tay người thỉnh thoảng vung lên, lưỡi sáng bắt ánh mặt trời loang loáng. Đang cắt lúa mà có chú rắn, chú chuột nào phi ra thì cái liềm bỗng thành bảo kiếm chém cái vút, thật lợi hại. Lúc nghỉ giải lao đầu bờ, một bà nghiện trầu nào đó sẽ lấy liềm để bổ quả cau hay cắt miếng vỏ giắt trong cạp quần từ lúc đi làm và miếng trầu lại là đầu câu chuyện rôm rả đến quên cái mệt.
     Ở nông thôn mới có ánh trăng, ngắm trăng đẹp thì ví "Trăng là liềm vàng, trăng là lưỡi bạc...". Trăng còn được nhìn thấy như lưỡi liềm, hết mùa gặt, ai bỏ quên trên cánh đồng Trời. Bác nông dân thì khẳng định: trăng mồng bốn lưỡi liềm, mồng năm liềm giật..cái liềm đã vào ca dao tục ngữ, thơ ca Việt Nam.
      Hồi mới ký hiệp định Pari 1973, tôi ở sát sân bay Tà Cơn. Đơn vị được làm lán trại để ở thay cho nằm võng bạt. Tay trợ lý hậu cần Tiểu đoàn mang về một bao tải to tướng. Lính đang đói, tưởng bở, hóa ra một bao tải...liềm. Thế là ngày ngày đi cắt cỏ tranh (gianh?) về làm mái, làm vách lán. Mấy ông cán bộ tiểu đoàn đã lớn tuổi, còn trải xuống làm đệm nữa. Cái liềm thay cho khẩu súng suốt cả tháng trời. Đến những chỗ cạnh sân bay, sợ có mìn vướng nổ, anh em lấy cái liềm buộc vào đầu con sào khua lên phía trước. Cái liềm sẽ lãnh đủ nếu gặp dây mìn vướng. Thân nó làm bằng thép, nó nhận phần nguy hiểm thay cho con người.
     Với tôi, con thợ rèn nông thôn thì cái liềm gắn với tôi theo cách khác. Bắt đầu làm thợ với bố là tập dẽ liềm. Đó là một công việc của người thợ làm cho liềm đã cùn trở thành liềm sắc. Đầu tiên, liềm được nung đỏ để nó mềm lại (xẹp liềm). Khi đã nguội, người ta dùng búa nắn cho cái liềm được thẳng, chỗ mũi nếu bị gẫy hoặc tù quá thì dùng kéo chuyên dụng cắt cho nhọn và đẹp. Kế đó, liềm được dũa sắc như lưỡi dao. Công đoạn tiếp theo là cắt chấu (làm răng cưa nhỏ li ti). Đây là một công đoạn khó và phân biệt người thợ này với thợ khác. Nhiều chú làm với bố tôi mãi mà không làm tốt việc này, răng chấu to, tù tù, nham nhở, dứt khoát không được làm. Sau khi cắt chấu, liềm được mài bằng đá núi cho hết ba-via ở lưỡi chấu và "tôi" liềm. Chỉ thợ cả mới "tôi" được liềm. Đó là làm cho lưỡi liềm cứng lại. Ngôn ngữ cơ khí hàn lâm thì nói: "tôi" là làm thép nóng đến một nhiệt độ nhất định và làm lạnh đột ngột. Người thợ rèn nông thôn không biết đến kiến thức cao siêu kia, chỉ dùng nước muối bôi vào lưỡi liềm, hơ trên lò than cho hồng rực đến một mức tùy ước lượng của thợ rồi nhúng vào bể nhỏ nước kêu đánh xèo một cái. Nhấc lên, chiếc liềm bong vẩy chỗ trắng, chỗ xanh, hơ nóng lại để "ram mầu", nắn hơi cong lên một chút là được. "Tôi" là một công đoạn quyết định của người thợ rèn. Tôi đọc cho bố nghe chuyện "Thép đã tôi thế đấy". Bố khen hay và bảo: "Tôi thế đấy" là thế nào? Phải là "tôi" đúng mầu như bố mày làm đây này" (!) Một chiếc liềm dẽ lại, tùy tay nghề của thợ và chất lượng thép, có thể cắt hết một vụ lúa vẫn còn sắc. Tất nhiên, không được lấy liềm bổ cau, cắt vỏ tray như mấy bà hoặc bổ ổi xanh như mấy đứa trẻ trâu.
     Tôi cắt chấu liềm khéo nhất trong các con của bố và nói đùa là gia truyền cũng được. Bây giờ còn mấy chú làm cùng bố ngày xưa có thể xác nhận điều này. Những cây liềm chuyên xén lúa ngày ấy dài cả nửa mét thì hoặc là bố, hoặc là tôi cắt chấu. Thậm chí, lúc đã rời bố mẹ thoát ly. mỗi lần về phép, bố lại để dành những cái liềm xén do người ở xa đến thửa cho tôi cắt chấu, sau khi chính tay bố dũa cho tôi.
    Bây giờ người nông dân quê tôi đã có máy gặt đập, không dùng liềm cắt lúa. Bố tôi đã về với trời xanh. Chỉ một đứa cháu ngoại còn giữ nghề kỳ cạch. Tôi nao lòng nhớ bố khi nghĩ lan man về cái liềm. Thầy Minh Tư ơi. bố em là một người thợ rèn nông thôn. Bố em dậy em dẽ liềm để phụ việc kiếm ăn cho gia đình thời ấy.
    Cái liềm gắn bó máu thịt với người nông dân là vậy. Có nhiều người đẻ con gái còn đặt tên là Liềm cơ mà. Những "cái Liềm" ở làng đã tiếp nối sinh con sinh cháu, hát mãi những bài dân ca tuyệt hay mà không một nhạc sĩ nào không cúi đầu trân trọng. Cũng có những "cái Liềm", ra thị thành đi học, giờ là những trí thức, văn nghệ sĩ với những cái tên nhiều từ và nhất định không phải là "cái Liềm".
           Không biết Nông Trường Chí Linh ngày xưa có dùng nhiều liềm không?. Biết đâu cũng có những cái Liềm, giờ mang tên sông tên núi rồi, hihihi./.